Số ra ngày 01/01/2019: Sinh Hoạt & Đổi Mới |
trình bày/góp ý | |
THI ĐÀN LẠC VIỆT & CƠ SỞ VĂN THƠ LẠC VIỆT - Nhung Giao Cam Ngoc Nga. | |
Sau may phan: Hoat Dong, Tuong Niem, Tri An...cua Thi Dan Lac Viet, nay BBT xin dang tai nhung bai viet ve cac tac gia da cong tac mat thiet voi Thi Dan trong thoi gian da qua,moi suu tap duoc,- qua phan Nhung Giao Cam Ngoc Nga - de tai lieu duoc cap nhat, va co the se bo tuc them trong tuong lai. Xin cam on qui vi va qui ban. BBT 30'7'2119. 4A- NHỮNG GIAO CẢM NGỌC NGÀ: THƠ VĂN &BẠN ...Sau hơn 15 năm hoat động, một số thành quả đã đạt được nhờ sự nỗ lực, hỗ trợ, hi sinh của tất cả quí vị thân hữu, huynh đệ…mọi thành phần trong và ngoài cơ sở Thi Đàn . Dưới đây là bảng danh tính và tin tức về các quí huynh đệ, thân hữu, văn nghệ sĩ …đã tận tâm, thành ý liên tục tham gia, chung sức, tiếp tay, góp ý…. trong các sinh hoạt của Thi Đàn …mà ban tổ chức còn lưu giữ được…xin trich đăng lại để làm kỷ niêm. 1- Bich Xuân - Băng Tâm - Cao Mỵ Nhân - Cao Tiêu - Chinh Nguyên - Chu Toàn Chung - Cung Diễm - Diên Nghị - Diệu Tần- Du Tử Lê 11- Duy Ngọc - Duy Nghiệp - Đào Văn Bình - Đào Khanh - Đào Thanh Khiết- Đào Tiến Luyện - Đỗ Bỉnh - Đỗ Quy Bái - Đỗ Tiến Đức - Đông Anh 21- Hà Bỉnh Trung - Hà Huyền Chi - Hà Ly Mạc - Hà Trung Yên - Hoa Hướng Dương - Hoàng Duy - Hoàng Hương Trang - Hòang Ngọc Liên - Hòang Ngọc Thúy - Hoàng Ngọc Văn - 31 -Hoàng Tầm Phương - Hoàng Xuyên Anh - Hồ Công Tâm - Hồ Trường An - Huệ Thu - Kathy Trần - Kim Vũ - Lê Mộng Nguyên - Lê Nguyễn - Lê Trung Nghĩa - 41 -Lê Tuấn - Lưu Thái Dzo - Lý Thái Vượng = Mạc Hoài Hương - Măc Lan Đình - Mạc Phương Đình - Minh Viên - Ngọc An - Ngô Đưc Diễm - Nguyên Phương - 51 -Ngô Đình Chương - Ngô Minh Hằng - Nguyễn Ái Lữ - Nguyễn Bá Trạc- Nguyễn Hồng Dũng - Nguyễn Thanh Giang - Nguyễn Thanh Xuân - Nguyễn Thị Ngọc Dung - Nguyễn Văn Cường - Như Hoa - 61 - Phạm Đức Điều - Phạm Hài Hổ - Phạm Mạnh Đạt- Phạm Quang Trình - Phạm Văn Hải - Phương Du - Phương Triều - Song Linh - Song Nhị - Sương Mai - 71- Tâm Huyền - Thái NC - Thái Quốc Mưu - Thanh Hiền - Thanh Thanh - Thảo Chi - Thi Cầm - Thiên Tâm - Thúy Sơn - Thúy Vũ - 81 - Quân - Tịnh Nguyệt Anh Nương - Tô Thùy Yên - Tràm Cà Mâu - Trần Ngân Tiêu - Trần Vấn Lệ - Trình Xuyên - Trúc Lang - Trùng Quang - Trường Giang - Tuệ Nga - 91-Tuệ Đàm Tử - TyNa - Vân Nương - Việt Bằng - Việt Thao - Vinh Hồ - ViVi & Diễm Châu - Võ Thạnh Văn - Vũ Gia Săc- 101 -Vũ Hoài Mỹ - Xuân Bích. B Í C H X U  N Ho Tên: Bích Xuân, sinh tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Ngụ ở Pháp từ 1978. Bắt đầu sáng tác thơ văn từ năm 1988. Đã cộng tác với các báo ở hải ngoại: Vietnamdaily (San Jose), Nghệ Thuật (Canada), Phụ Nữ Diễn Đàn (Cali), Sóng Thần (Washington DC), Kịch Ảnh (Houston ), Ngày Mai (Cali), Bút Việt (Dallas TX) và đặc san của các Hội Đồng Hương Quảng Nam Đà Nẵng… Tác phẩm đã xuất bản: 1. Bao giờ em quên (1994) 2. Chàng (1996) 3. Bao giờ anh di (1997) 4. Bây giờ em vui (1998) 5. Trước khi mùa xuân đến (2001) 6. Mùa xuân châu ngọc (2003) Bích Xuân và chúng tôi quen biết nhau trên 10 năm nay qua sự giới thiệu của nhà văn Từ Nguyên, trong Văn Bút Việt Nam/Âu Châu. Năm 1995, Bích Xuân đã có dịp ghé vùng Thung lũng Hoa Vàng để nhờ Thi Đàn Lạc Việt giúp ra mắt tác phẩm đầu tay “Bao Giờ Em Quên”; và với dáng vóc và khả năng đa dạng (văn, thơ, ca nhạc...), cô đã chiếm trọn cảm tình của khán giả và lưu lại nhiều kỷ niệm đẹp. Sức sáng tác của Bích Xuân ngày càng sung mãn, và tên tuổi của cô được biết đến trong và ngoài nước.Thơ Bích Xuân phản ảnh một tâm hồn lãng mạn, nhậy cảm, khao khát tự do với những vần nóng bỏng, tự nhiên... BĂNG TÂM Họ tên: Nguyễn Thị Băng Tâm. Sinh ngày 29/10/1951 tại Phủ Lý Hà Nam Bắc Việt Nam. Qua My, tị nạn: 4/1975. Theo học và tốt nghiệp bác sĩ Doctor of Chỉropractic (DC), hành nghề ở San Jose. Lam thơ, đăng trên các báo Việt ngữ ở Mỹ. Dự in: Từ Đó Thơ Vào Đời….Đã lâu không có tin tức về bà.…Xin xem bài viết sơ lược về NT Băng Tâm của Thụy Cầm trên báo Duyên… C A O M Ỵ N H  N Sinh tại: Chapa, Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt Nam- Trước 1975: Nữ quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa- Bộ Tư Lệnh Quân Khu 1. Cấp bực cuối cùng : Thiếu Tá, Trưởng Phòng Xã Hội. Sau 1975: Cải tạo lao động tại Bến Sắn, Đồng Xoài. - Định cư tại Mỹ theo diện HO cuối năm 1991.- Làm thơ từ năm 13 tuổi -Sáng tác mấy ngàn bài thơ (chưa in). - Có thơ góp trong Một Phía Trời Thơ 2, 3...- Đã in: Hoa Sao, Thơ, 1958 - Thơ Mỵ 1, 1960 và Thơ Mỵ 2, Thơ, 1997 Ngày Nay; Chốn Bụi Hồng - Ký, Sông Thu 1994 -Áo Màu Xanh, Thơ, Cỏ Thơm 1999- Mỹ; Đưa Người Tình Đi Tu – Lãng Đãng Vào Thu (2001) - Sẽ In: Mấy Vần Thơ Ma; Chốn Bụi Hồng 2… Cao Mỵ Nhân (cũng là tên họ), bắt đầu cầm bút từ năm 13, tuổi mơ mộng học trò. Bà là hội viên nhỏ tuổi nhất (nhưng cũng là một phần tử xuất sắc) của Thi Đàn Quỳnh Giao ở Sàigòn năm xưa. Sức sáng tác rất mạnh, nghe nói bà đã làm ba, bốn ngàn bài thơ, con số đáng phục vì chỉ có một thiểu số đat được. Nguồn thơ của bà dường như bất tận trong suốt bốn thập niên qua, khởi với thi tập Hoa Sao (1961) đến Thơ Mỵ (1961)….rồi tiếp tục ở nước ngoài với Thơ Mỵ 2 (1991), Áo Màu Xanh (1997), Lãng Đãng Vào Thu (2001), và Đưa Người Tình Đi Tu (2001). Ngoài thơ, bà còn viết truyện, tùy bút và đã in tập Chốn Bụi Hồng (1994). Bà cũng có tài ngâm thơ, tính tình vui vẻ, mau mắn….dễ có cảm tình với mọi người.Thơ văn bà viết, nói chung, già dặn về nghệ thuật, giàu tình cảm, dễ đọc nhưng không kém súc tích, đôi khi pha tính chất trào lộng, có vẻ như bất cần đời. Bà là một trong số ít nhân vật nữ có văn tài phục vụ trong quân ngũ miền Nam trước đây (1962- 1975) trong ngành cán sự xã hội, cấp bậc Thiếu Tá. Ở tuổi hưu trí, hiện nay bà vẫn hăng hái hoạt động về văn học và tiếp tục sáng tác. CAO TIÊU Họ tên: Hoàng Ngọc Tiêu. Sinh năm 1929 tại Duong Thông- Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Cựu đại tá Việt Nam Cộng Hòa. Chủ nhiệm nguyệt san Tiền Phong ; Bán Nguyệt San Chiến Sĩ Cộng Hòa – 1968/75. Trong thành phần Ủy Ban Giám Khảo bộ môn Thơ – Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam Cộng Hòa 1974. Sau 1975: Định cư ở Orange County California. Theo lời mời của Ban Điều Hành Thi Đàn Lạc Việt - Mỹ, ông đã vui long đảm nhận nhiệm vụ Trưởng Ban Tuyển Trạch 2 Kỳ Thi Thơ Liên Xứ 1994 và 1996, kết quả cuộc thi rất khả quan. Đã mệnh chung ở Orange County, không rõ ngày giờ. Sáng tác thơ khá đều đặn, hay xướng họa với thi sĩ Đan Quế… nhưng rất tiếc những trước tác của ông chưa được phổ biến rộng rãi… C H I N H N G U Y Ê N Họ tên: Nguyễn Trung Chính Sinh năm 1943 tại Thành Lập, Hà Đông, Bắc Việt 1950: trốn CS vào Hà Nội 1954: sau Hiệp Định chia đôi đất nước, di cư vào NhaTrang. 1958-1967: theo học tại trường Trung Học Ban Mê Thuột. Dòng La San Nha Trang, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn 1968-1975: phục vụ trong Quân chủng Không Quân, QLVNCH. Sau biến cố 30-4-75, tỵ nạn CS tại San Jose/CA/ USA Năm 1980-1986: theo học tại LaSalle University, MO, USA. Nghề nghiệp: F/A Characterization Test Eng. Đã về hưu sau 28 năm làm cho IBM. Trước 1975, tác giả mang bút hiệu Hà Nguyên Trung Tác phẩm in: Lời Tình Buồn (Thơ) - Sẽ in: Mẹ Tôi (tập truyện) , viết chung với nhóm Đồng Tâm, Tuyển Tập Văn Học Thời Nay, có bài đăng trong trên báo Ý Dân, Thời Luận, và diễn đàn networks . Chinh Nguyên đến với chúng tôi qua tuyển tập định kỳ Văn Học Thời Nay, Nam California. Thời gian giao tiếp không lâu nhưng chúng tôi đã mau chóng trở thành cộng tác chân thành và thân hữu. Với căn bản học vấn vững vàng, và tinh thần dấn thân...những năm gần đây, các cơ sở, diễn đàn văn học ở ngoài nước đã quen thuộc với sự đóng góp của ông về mặt thơ văn. Gần đây ông đã cho ấn hành thi tập Lời Tình Buồn và một số CD phổ thơ; ông đang chuẩn bị cho ra đời tập truyện ngắn Mẹ Tôi, mà chúng tôi được hân hạnh đóng góp vài ý kiến. Thơ ông nặng về tình quê hương, gia đình… có sức cuốn hút dễ dàng, phải chăng là do khả năng vận dụng chữ nghĩa vững vàng và uyển chuyển sẵn có. C H U T O À N C H U N G Họ tên: Chu Toàn Chung. Bút hiệu: Nguyên Thủy. Sinh năm 1937 tại Phú Thị - Hưng Yên. Trước 1975: giáo sư Việt văn các trường tư thục Sàigòn. Định cư: San Jose, Bắc California, Mỹ, từ 1984. Có thơ đăng trên một số báo chí, tập san Việt ngữ trong và ngoài nước. Tác phẩm in: chưa phổ biến. Dòng dõi thi hương, cháu nội của ông Nghè Chu Mạnh Trinh, Hưng Yên, nhà thơ Chu Toàn Chung, với dáng điệu nho nhã, nụ cười nửa miệng… đã để lại hình ảnh trong tâm hồn người đồng điệu một thời gian khá dài. Trước đây, nhà văn Thụy Cầm đã viết một bài giới thiệu thơ ông trên tập san Duyên, ở San Jose, cách nay chừng 13 năm, xin quí bạn tìm đọc lại cho được đầy đủ. Sau một thời gian tương đối dài, vắng bóng, chúng tôi mới được gặp lại nhà thơ họ Chu, ngoại hình có vẻ thay đổi ít, nhiều theo tuổi tác, nhưng nụ cười cố hữu vẫn nở trên môi. Năm tháng cũ, mỗi khi gặp nhau trong (những) buổi họp là lại được ông gọi đến cho nghe vài câu thơ mới làm (hay đắc ý), nhưng lần này ông lại hẹn đến nhà, nếu có dịp, để trao đổi tâm tình sẽ thuận lợi hơn. Như vậy có nghĩa là ông còn sáng tác, vẫn làm thơ, nhất là thơ tình, vì nguồn sống của ông trước, sau vẫn là những bài tình ca ướt át, thiết tha, lãng mạn… không thua gì thời tiền chiến (trước 1945). Dù thơ ông không nhiều, qua những vần điệu đã được phổ biến (hay đăng báo), người ta nhận thấy một bút pháp vững vàng, tài hoa… có sức lôi cuốn mạnh, tuy vẫn nặng về những thể điệu truyền thống (lục bát, thất ngôn..) Trong khi chờ đọc những sáng tác mới của ông, những bài thơ chúng tôi ưa thích nhất vẫn là: Chiều Mong Đợi, Diễm Tuyệt và Hình Phạt, như nhà văn Thụy Cầm viết trước đây. Xin quí bạn tìm đọc mấy bài thơ của ông đã được trích đăng trong Tuyển tập Thơ văn “ Thắp Sáng Quê Hương” từ năm 1991. CUNG DIỄM Họ tên: Hoàng Kim Dũng - Sinh năm 1932- Tại Quảng Nam Đà Nẵng, Trung Việt. Có Bút hiệu Tú Lắc khi làm thơ trào phúng. Định cư ở San Jose, Mỹ từ 1991- Tham gia hoạt động với Thi Đàn Lac Việt và Cơ sở Cội Nguồn… Thơ đăng trên các báo vùng Nam Vịnh San Francisco và các bang ở Mỹ…Chưa in riêng tác phẩm nào . Xin trích đăng bài thơ Tân Trang của ông để thay đổi không khí thơ: Bà ấy tân trang lắm kẻ lầm Mũi vừa mới sửa, mắt vừa xăm Lêu nghêu nhún nhẩy, đôi giày Mỹ Cũn cỡn đong đưa, chiếc váy đầm Đuổi cái Thu tàn non sáu chục Níu mùa Xuân muộn cỡ băm lăm Hỏi thăm mỹ viện câu này nhé: Có sửa cho bà được cái Tâm! Thật không hổ danh là con cháu cụ Tũ Xương ngày trước ! D I Ê N N G H Ị Họ tên: Dương Diên Nghị. Sinh quán: Lệ Thủy, Quảng Bình. Bút hiệu khác: Dương Liễu Dương, Hàm Dương…. Trước 1975: Cựu học sinh Trường Quốc Học (Huế); Đại học Văn khoa -Sàigòn.- Cử nhân Luật khoa. Nhập ngũ, phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị. Ủy viên Thơ, Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội miền Nam; Giải thưởng Tao Đàn 1960. Thơ đăng trên các tuần báo Đời Mới, Thẩm Mỹ tại Sàigòn, từ 1952, Văn Nghệ Tiền Phong, Chiến Sĩ Cộng Hòa, Bách Khoa, Sáng Tạo, .. 1956. Đã in: Xác Lá Rừng Thu, Thơ, 1956; Luận Về Thơ Mới, 1956; Chuyện Của Nàng, Thơ, 1962; +Rừng, Đỗ Quyên Và Kẻ Lạ, Thơ, 1971; Vùng Trời Mây Trắng, Truyện dài, 1971….Không kể các tác phẩm chung (Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại, Từ Điển Thi Ca Anh, Mỹ, Việt...). Định cư ở Bắc California từ 11/1993, diện HO, sau 10 năm tù cải tạo. Chủ bút nguyệt san Chiến sĩ Cộng Hòa, San Jose (1994-95). Sáng lập viên Cơ sở Thi Văn Cội Nguồn, chuyên mục Điểm Sách trên nhật báo Thời Báo (San Jose); ban chủ trương nguyệt san Khơi Nguồn… Diên Nghị là một kỳ cựu (trong làng thơ văn) miền Nam, có mặt khá sớm trên một số tạp chí có danh thời đệ nhất Cộng Hòa (1956). Thơ của ông được diễn ngâm luôn luôn qua các ban Tao Đàn và Thi Nhạc Giao Duyên ở Sàigòn, do các thi, nghệ sĩ Đinh Hùng, Tô Kiều Ngân, Thục Vũ phụ trách…. Thực sự, chúng tôi mới được cộng tác với ông từ năm 1994, qua Thi Đàn Lạc Việt, sau khi ông di chuyển đến Mỹ, theo chương trình HO. Dáng người nhỏ nhắn, tầm thước, ăn nói nhỏ nhẻ, nhưng với sức làm việc bền bỉ, trầm lặng, kỹ lưỡng...ông dễ được các cộng sự viên cảm mến. Từ ngày xuất ngoại, ông có vẻ như chuyên chú vào công tác phê bình, biên khảo hơn là sáng tác thơ văn. Nói chung, thơ Diên Nghị mang tính đa dạng: có những đoạn với sắc thái trữ tình, ở những vần điệu khác lại có vẻ nhuần thấm tư tưởng Phật Đà và hiện thực….nhưng tựu chung vẫn có cái nhìn sâu về vạn pháp vô thường, những khổ lụy, về chiến tranh.. ...những bế tắc không lối thoát… . đối với nhân loại, Quê Hương, Đất Nước. Lời thơ trong sáng, giản dị, không cầu kỳ, vần điệu đôi khi lỏng lẻo…nhưng vẫn có sức cuốn hút khác thường, có lẽ vì vẻ đẹp đạm thanh, những chi tiết, hình ảnh sống động của nó. DIỆU TẦN Họ tên : Nguyễn Tinh Vệ Bút hiệu trước 1975: Tinh Vệ Năm và nơi sinh: 1932 Nhâm Thân tại Mạo Khê, Ðông Triều, Hải Dương Nghề nghiệp: Giảng dậy tại Viện Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Mỹ-Monterey. Hoạt động: Bắt đầu viết từ 1955; Cộng tác với báo chí trong, ngoài nước.-Tác phẩm-Ðã In: Trên Bờ Kinh An Hạ (1988); Cơn Mưa Ðầu Mùa (1990); Hoa Ðào Năm Ngoái (1996)- Tập truyện ngắn- Kéo Da Non (1994)-Truyện Dài-Sẽ In: Xứ Người; tập truyện-Hoa Xuân Lại Nở (Thơ); -Câu Chuyện Chữ Viết và Tiếng Nói (Ngôn ngữ);-Giới Thiệu và Nhận Xét Văn Thơ (nhận xét) Giải thưởng Văn Học: -Giải Nhất Thoại Kịch Văn Nghệ Quân Ðội- Vở Kịch Bão Loạn, 1957-Giải Nhất Thoại Kịch Văn Chương Toàn Quốc-Vở Kịch Cơn Lốc, 1966- 69-Viết sách giáo khoa Chúng tôi mới thân quen nhau 10 năm nay, nhưng giáo sư Diệu Tần đã là cây bút thành danh sớm, từ trước 1975, đặc biệt là môn Thoại Kịch, mà ông đã hai lần chíếm Giải Thưởng toàn quân và toàn quốc vào những năm 1957 và 1963-1966. Từ đầu năm 1993, chúng tôi cộng tác với nhau chặt chẽ để mở rộng hoạt dộng văn hóa qua những buổi thuyết trình, nói chuyện về các đề tài : Nghệ thuật viết Truyện Ngắn; Ca Dao Việt Nam, Mệnh Số học; Bàn về Tiếng Việt, Tìm Hiều Về Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Thơ Việt Ở Ngoài Nước… cùng với những sinh hoạt thơ văn định kỳ ở địa phương. Ông là người học rộng, đa năng..tánh tình cởi mở, cương trực… luôn luôn giúp đỡ bạn bè… trong những buổi ra mắt tác phẩm, trình diễn văn nghệ … nên được cảm tình của đa số anh chị em trong thi văn, giới… Trên báo chí, người ta thường thấy những bài giói thiệu, nhận xét tác giả và tác phẩm mới ở địa phương, mà trong tương lai, ông sẽ cho in thành sách. Gần đây, nhà văn Diệu Tần cho phát hành tác phẩm mới: Sơ Lược Về Ngôn Ngữ, tuy nói là sơ lược, nhưng soạn thảo rất công phu. Sự hữu ích của tác phẩm đã được một số độc giả tán thưởng, trong đó có nhà báo kỳ cựu HX, khi gọi đến (chúng tôi) hỏi thăm địa chỉ tác giả, đã không tiếc lời khen ngợi và kính phục học vấn uyên bác của ông. Ðìều ít ai nghĩ tới là ngoài văn tài, giáo sư Diệu Tần còn rành về hội họa, và mấy năm sau này, ông lại xuất hiện trên địa hạt thơ, với những vần điệu độc đáo, tư tưởng phóng khóng, tự tạo cho mình một phong cách riêng… D U T Ử L Ê Ho Tên : Lê Cự Phách .- Sinh năm 1942 tại Hà Nam, Bắc Việt - Cựu học sinh Chu Văn An Sài gòn.- Cựu Sinh viên Đại Học Văn Khoa Sài Gòn-Giải Thưởng Vă Chương Toàn Quốc 1973với tác phẩm Thơ Du Tử Lê 1967-1972 - Tỵ nạn Hoa Kỳ 1975- Cựu Hội Trưởng Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi - Chu Văn An Nam California, 1980-1985. Tác Phẩm Đã In: - Thơ Du Tử Lê, 1964 - Năm Sắc Diện, Năm Định Mệnh, 1965 - Tình Khúc Tháng Mười Một, 1966 - Thơ Tình, 1969 - Mắt Thù, 1969 -Ngửa Mặt, 1969 - Vốn Liếng Một Đời, 1969 - Những Hình Bóng Khác, 1970 - Tay Gõ Cửa Đời, 1970 - Chung Cuộc (viết với Mai Thảo) - Một Đời Riêng, 1972 - Khóc Lẻ Loi Một Mình, 1972 - Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi, 1997 - Tiếng Kêu Nào Bên Kia Thời Tiết, Truyện. - Em và, Mẹ Và Tôi Là Một Nhé, bán hồi ký - Chỗ Một Đời Em Vẫn Để Dành. - Nhin Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi - Chấm Dứt Luân Hồi - Em Bước Ra - Đi Và Về Cùng Một Nghĩa Như Nhau. Nhà thơ Du Tử Lê nổi tiếng từ trong nước nhiều thập niên qua. Sau khi ra nước ngoài, ông tiếp tục sáng tác và đã làm rạng danh thơ Việt trong giới học đường Mỹ hơn ai hết. Thơ ông có nhiều ý từ mới lạ, cách trình bày luôn mang những nét tân kỳ, - nhiều khi bị cho là khó hiểu, lập dị – có thể coi như một cải cách táo bạo, sau phong trào thơ Mới và thơ Tự do... Gần cuối đời, ông mắc bệnh trọng nhưng vẫn hăng say sáng tác, và không quên hỗ trợ cho những vận động liên kết và tương trợ của các cơ sở thi văn như Xuân Thu-Lạc Việt...thật là đáng ngưỡng mộ. DUY NGỌC Họ Tên: Ðặng Ngọc Anh Sinh năm: 1932 tại Long Mỹ, Phong Dinh (Cần Thơ) Trước 1975: Học trường tiểu học Long Mỹ, Cần Thơ-Trường nữ Trung Học Gia Long và Ðại Học Văn Khoa-Sàigòn Dậy học ở Gia Ðịnh và Sàigòn. Ðịnh cư: Tại Mỹ (California) từ 1984. Hoạt động: thơ văn từ sớm. Có thơ đăng trên nhiều báo chí trong, ngoài nước.Hội viên viễn cư Thi Ðàn Lạc Việt-Bắc California (Mỹ) Duy Ngọc là người tha thiết yêu thơ và tập làm thơ từ thiếu thời. Sau này, khi đã thành trưởng, lúc đi học trung học, hay khi đã là một sinh viên Ðại Học Văn Khoa Sàigòn, rồi trở thành giáo chức, bà vẫn mê say theo đuổi nghiệp thơ. Năm 1994, bà hăng hái tham gia cuộc thi thơ liên xứ do Thi Ðàn Lạc Việt tổ chức, và chúng tôi biết nhau từ ngày ấy; bà còn là một (trong số những) hội viên viễn cư kiên định, luôn luôn sẵn sàng hỗ trợ chương trình hoạt động của Thi Ðàn. Vài năm nay, bà lâm bệnh nặng, phải dùng đến ngoại khoa chữa trị, nhưng lúc nào cũng sốt sắng hưởng ứng yêu cầu của cơ sở . Khi biết tin tuyển tập Thơ Việt Ngoài Nước đang được thực hiện, bà cố gắng thu thập một số bài, gửi xin tham dự.Trong thư, bà viết:..Tôi có mấy bài thơ .... muốn đóng góp (vào tuyển tập) để kỷ niệm cuộc đời thơ văn của mình, nhưng không biết có được không? Nếu không được.. không sao hết, tôi cũng xin cảm ơn. Vì, có lẽ bà nghĩ:Mình đọc thơ mình, chỉ một mình thôi, Dở, hay, buồn vui …vẫn là tâm sự!Bà tiếp:..Người nào bị bệnh (này) đều đi… mau lắm...Tôi rất buồn vì mình còn nặng nợ thơ văn mà phải...(trút gánh giữa đường) trong lúc mình vẫn còn ham thích sống (thêm) để thưởng thức cái đẹp của thi ca … Chúng tôi rất cảm xúc khi đọc thư bà, và thật sự mong thi giới có những người yêu thơ tha thiết như bà, đã góp phần không nhỏ (ít nhất là tinh thần) vào việc xây dựng một nền văn hóa công bằng và nhân bản trong một thế giới hòa bình, tương ái. . D U Y N G H I Ệ P Họ Tên: Bùi Duy Thuyết -Trước 1975: Công chức. Sau 1975: Định cư tại Mỹ đầu thập niên 90, miền Bắc California. - Hoạt động: Đã in: Sự Có Mặt Kiếp Người (1962) –Vạn Hạnh-Sàigòn; Sen Nở Trong Tôi (1995) -Hoa Vàng - Mỹ. - Có thơ đăng trên nhiều báo và tạp chí trong, ngoài nước: Vạn Hạnh, Đuốc Tuệ, Hải Triều Âm, Hoa Sen, Chân Nguyên, Phật Giáo Hải Ngoại, Pháp Duyên, Chánh Đạo, Tin Sáng, Ngàn Khơi, Thời Báo, Diễn Đàn San Jose, Làng Văn, Thế Kỷ 21…. Trước khi được gặp nhau, chúng tôi đã có dịp đọc thơ Duy Nghiệp trên một số báo và tạp chí ở hải ngoại. Lời thơ nhẹ nhàng đượm Đạo vị, với cấu trúc gần với thể tự do, nói lên tinh thần và tâm trạng của tác giả, dễ khiến chúng tôi trở nên quen thuộc. Hình ảnh một phóng viên nhà báo, thấp nhỏ, hai vai mang đầy dụng cụ nhiếp ảnh,- nhưng miệng lúc nào cũng tươi, dễ được cảm tình của đám đông. Tuy nhiên, trong đời sống riêng, ông rất ít bạn bè, và cũng ít tham gia sinh hoạt, vì không muốn đụng chạm với ai. Mỗi khi tâm sự với nhau, ông thường tỏ vẻ ái ngại cho chúng tôi đa mang quá nhiều việc, nhưng sau khi nghe giải thích, ông lại gật gù, cười mỉm:” Đúng là cái Nghiệp, ông ạ!” …Bàn về thơ Duy Nghiệp, thày Đức Nhuận, trong lời giới thiệu thi tập “Sự Có Mặt Kiếp Người” viết:” Thơ là tiếng nói chân thành của thời đại. Tôi đã thấy thời đại hiện hồn qua thơ Duy Nghiệp. Hiện hồn bằng khuôn mặt đôi mươi già nua trầm mình trong suy tư khắc khoải: một thanh niên có khuôn mặt già nua một thời đại loang lổ... Theo tinh thần một đoạn văn của Thày, “dường như trong thơ Duy Nghiệp có chút dấu vết chán chường…” Người ta thường bảo tôi chán đúng tôi chán. Tôi chán Tôi chán lối sống đam mê lối sống lẫn lộn bẩn thỉu lối sống giả tạo lối sống dục vọng mê mờ lối sống tăm tối nghĩa là tôi chán cái chán phi lý.. tôi chán tất cả như thế chán để giải thóat.. (Chán) Tuy nhiên, ở thơ Duy Nghiệp, chúng tôi đã gặp những vần điệu nhẹ nhàng, bay bổng muốn nói lên cái tư tưởng thanh thoát, độ lượng từ bi của Phật gia, mà ông là một đệ tử thuần thành.Trong vườn thơ Việt hiện nay ở ngoài nước, thơ Duy Nghiệp có những nét đặc thù rõ rệt, khác hẳn một số nhà thơ Đạo khác. ĐÀO VĂN BÌNH …Ở đây, xin được thêm ít hàng về nguời bạn “ đặc biệt”, đó Ìà cây bút đa năng, đa diện Đào Văn Bình, một đồng môn trẻ tuổi và sớm nổi tiếng ở hải ngoại. “Thực thế, lần đầu tiên NV được tham gia sinh hoạt văn nghệ ở San Jose là dịp ra mắt sách “ Những Sự Thật Không Thể Chối Bỏ” của anh cùng với mấy bạn cựu sinh viên thân cận như Bùi Huy Hải, Phạm Hữu Độ, Bùi Thế Thành…ở Nhà hàng Phở Số I, số 1536 đường West San Carlos, San Jose vào ngày 12/4/1987. Lúc này, NV đang ở trong tình trạng thất nghiệp, lo học gấp để thi lấy bằng địa ốc cuối năm, nên cũng không quan tâm theo dõi, tìm hiểu thêm - (sau này mới biết là trong buổi họp đó có sự tham dự của nhà văn Mai Thảo, và nhà thơ Nguyễn Bá Trạc, - (cũng là một đồng môn QGHC). …Thú thật, năm 1991 là lần đầu tiên NV phải lo về tổ chức Ra Mắt Sách ở xứ người nên cũng không biết phải xoay sở ra sao… (Rồi) NV đành phải lo lấy, và đi vận động một số văn thi hữu, bạn thân quen như Đào Văn Bình, Hoàng Anh Tuấn, Vũ Ngọc Ân...giúp hộ một tay và ai nấy đều vui vẻ, sẵn sàng. …Thế rồi đến lúc chào cờ, lại không có ban nhạc, nên các bạn Đào Văn Bình và Trần Quảng Nam vội ra xe lấy cây đàn guitar gỗ trong thùng xe ra đàn và hát theo nhịp quốc ca. .. …Dịp này, xin nói thêm về một đồng môn mới gặp từ giữa năm 1987, sau khi anh ra mắt thành công tập Hồi Ký “Những Sự Thật Không Thể Chối Bỏ”. Mới ở trong tuổi 50, ĐVB vượt biên đến Mỹ khoảng năm 1985, đã tích cực hoạt động, viết sách, viết báo và tỏ ra rất sung sức. Vào năm 1991, anh đã xuất bản được 4 tác phẩm đủ loại,- kể cả NSTKTCB -, được độc giả đón nhận khá nhiệt thành, đó là: Thơ Tuyển & Tổ Ấm Cuối Cùng (1987); Chọn Lựa, Truyện dài, 1989, và Tuyển tập Sóng Bạc Đầu, truyện ngắn, 1991…(và đến 2002, anh lại có thêm 3 ấn phẩm khác nữa!) . Trong thời gian này, anh Đào cũng hợp tác với nhóm nhà văn Chu Tấn (Trần Như Huỳnh) thành lập Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam để tiếp tục tranh đấu chống Cộng Sản; và đã in tuyển tập Thắp Sáng Quê Hương… Rồi sau đó, làm chủ tịch Hội AH Cựu Tù Chính Trị mấy nhiệm kỳ liền …” ĐÀO KHANH Đào quân với chúng tôi hội ngộ trong trương hợp cả hai bên cùng giúp việc bán thời cho Hội Tuổi Hạc (Người Già) San Jose của ông cựu đốc phủ Nguyễn Bích Liên vào cuối thập niên 1980. Khi sửa soạn trình làng thi phẩm Huyền Ca Diễm Ảnh vào năm m1991, Đào quân đã giúp NV về phần đanh may và trình bày; lúc này kỹ thuật điện toán chư được phô biến lắm (ở địa phương!), còn phải dùng lối cắt, dán…trước khi in ấn; cái bìa ngoài may được ông chủ nhà in, giáo sư Vũ Tiến Thủy vẽ hộ, cũng khá đẹp mắt! Nhà văn Đào Khanh là cựu tụ Cải Tạo (Cộng Sản), vượt thoát Việt Nam tương đối sớm, và định cư ở San Jose, đã làm chủ biên tập san Trống Đồng của ông bạn Vũ Ngọc Ân , trong xử thế, ông tỏ ra là người khéo léo, khôn ngoan, không làm mất lòng ai. Sau đó, ông qua giúp phần dịch tin tức cho mấy nhật báo Thơi Báo và Việt Nam Nhật Báo ở địa phương… Khi tham gia thành lập Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị xong, ông dành thì giờ riêng để tiếp tục sáng tác, trong đó có Tuyển tập Truyện Ngắn Đôi Mắt, và Truyện Dai Cá Lớn nói về kiếp sống Thuyền nhân? và tệ trạng vượt biên, được độc giả đón nhận rộng rãi… Đ À O T H A N H K H I Ế T Sinh ngày 02/6/1936 tại Sơn Định, quận Chợ Gạo, tỉnh Vĩnh Long. Bút hiệu cũng là họ tên .Định cư tại: White Mountains, Arizona, Mỹ. Trước1975: Sở Tu Thư-Bộ Giáo Dục-Sàigòn; Bộ Ngoại Giao; Sau 1975:: Chuyên viên Kế Toán - Cao học Quản Trị Kinh Doanh. Chủ Bút Nguyệt San Tiếng Nói Hi Vọng - Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm Việt Nam -Thành viên Tao Đàn Bạch Nga ;-Thơ đăng trên: tạp chí Phổ Thông, Văn Học, Văn Đàn, -Góp mặt trong thi phẩm chung Cụm Hoa Tình Yêu 5, 6; Tiếng Thơ Hải Ngoại 3; Một Phía Trời Thơ 4, 5; Thơ Việt Hải Ngoại I...Đã in:- Băng thơ Đào Thanh Khiết 1, 2, 3, 4 (2000; Nhạc Lòng (gồm 4 thi tập: Nhạc Lòng, Phiêu Bồng, Chân Trời Mới, Tình Thương (2001) Nhà thơ Đào Thanh Khiết với chúng tôi chưa được gặp nhau, nhưng khi Thi Đàn khởi vận động thực hiện Tuyển Tập “Thơ Việt Hải Ngoại” thì ông là người sốt sắng ủng hộ và thành khẩn đóng góp (bài) đầu tiên. Đấy là một khích lệ đáng kể cho ban phụ trách. Từ đấy ông luôn theo dõi, tích cực hỗ trợ.. Thi Đàn trong mọi công tác chung, đem lại nhiều kết quả tốt đẹp… Qua những thi phẩm đã in - chúng tôi nhận thấy ông là người có tâm hồn chân thật, đã mạnh dạn tỏ bày trong thơ những tình cảm trung hậu đối với Đất Nước.và với quan niệm sống lạc quan, bình dị.. đã tạo cho người đọc một cảm giác thoải mái, yêu đời. Đấy là một trong những thành tựu đáng quí của Đào quân… ĐÀO TIẾN LUYỆN Sinh năm 1935 tại Xuân Trường - Nam Định. Học sinh các trường Nguyễn Khuyến Nam Định và Chu Văn An – Hà Nội. Bắt đầu làm thơ từ tring học và đâng trên các báo Liên Hiệp, Đời Mới…Di cư vào Nam 1954. Theo học Văn Khoa và đậu bằng Cử Nhân Giáo khoa…Tiếp tục làm thơ đăng các báo…Sau 1975, định cư ở Thung lũng Hoa Vàng, California Mỹ, có bằng Cao Học giáo khoa về Văn Chương Pháp …Dậy học với cấp Associate Professor. Tác phẩm đã in: Hoa Thông Thiên 1970 - Người Em Gái -1972. Sẽ ấn hành : Mẹ và Quê Hương và Thư Gửi Một Người… Đ Ỗ B Ì N H Sinh quán: Bắc Việt- 1954 : di cư vào Nam cùng gia đình; đi học, thích thơ, văn, họa, nhạc… -Trước 1975: SQ QLViệt Nam CH. Sau 1975: Cựu tù nhân chính trị - Nguyên chủ bút Nguyệt san Vùng Dậy- Biên tập viên Đài Phát Thanh RGB... -Sáng lập Hội Văn Hóa & Thư Viện Bắc Paris ; Hội viên Hội Nhà Thơ (Pháp) - Chủ tịch Hội Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam…-Tốt nghiệp Trường Thương Mại Paris -Tác phẩm xuất bản: Buồn Viễn Xứ - Thơ - ( 1992); Bóng Quê -Thơ (1998) - Góp mặt tại các tuyển tập:Esquisses de l'Âme (Bibliothèque Internationale de Poesie) - Les Poetes du Dimanche 1, 2 - La Plume de l'Écritoire 1, 2, 3. 4. 5, 6; -The Silence of Yesterday (Cội Nguồn); - Cộng tác với nhiều tạp chí Văn Học Nghệ Thuật hải ngoại qua nhiều thể loại: Biên Khảo, Phê Bình, Truyện Ngắn..-Sáng tác: nhiều ca khúc. Qua những tuyển tập thơ Cụm Hoa Tình Yêu lưu hành ở hải ngoại, chúng tôi được đọc thơ Đỗ Bình, và mong mỏi được gặp, vì nghe nói anh là người đa tài: bên cạnh tài ghép chữ nối vần, anh thường viết nhạc và tự trình diễn những bài thơ (phổ nhạc) của chính anh. Dịp tốt đã đến khi anh (và chị) từ Pháp qua dự buổi hội của Hội Thơ Tài Tử Việt Nam ở Sacramento, nhân đấy đã ghé thăm, hàn huyên, trao đổi cùng bạn bè ở thung lũng điện tử, vào cuối năm 1998. Trong dịp ấy, chúng tôi đã góp ý về tác phẩm Bóng Quê của anh (1998) và thưởng thức ngón đàn gợi cảm của anh, với giọng ngâm điêu luyện của chị. Điểm nhận xét chính là: “Đây là tập hợp những bài thơ kỷ niệm về quê hương, những mối tình đep nhất của tuổi học trò/hoa niên và những cảm hoài đối với thân phận hiện tại. Đặc biệt là mặc dầu còn ít tuổi, mà thể thơ 7 chữ anh làm rất vững vàng, mà lại trẻ trung…! “ Ngoài ra, ở những thể thơ khác, (lục bát, 5 chữ, thơ mới…) tác giả đều chứng tỏ sự thành công của mình. ÐỖ QUÝ BÁI. Dương Ð.C thân mến, “Ðệ cứ lưỡng lự mãi về cái tiểu sử, chẳng biết viết ra sao mà gửi,vì có gì đáng nói đâu? Ðệ có tên là ÐQB do cha mẹ đặt cho, vì là con út nên đệm chữ Quý. Ðệ chọn bút hiệu Lạc Thủy vì cả nhà tên đều thuộc bộ Thủy. Sinh vào Ðệ Nhị Thế chiến, khoảng 39- 40 gì đó. Năm Canh Thìn thì phải. LÀM THƠ CHƠI NĂM 1955, MAY MẮN NGÁP RUỒI TRÚNG GIẢI NHẤT CUỘC THI THƠ Ở ÐÀI PHÁT THANH do Ðinh Hùng phụ trách, mục Thi Nhạc giao duyên. Năm 1958, xuất bản tập thơ đầu cùng với Diễm Châu Phạm Ngọc Rao (Sau này Diễm Châu làm chủ bút tờ Trình Bày.) Năm 1964, đệ xuất bản cuốn thứ 2 tựa đề là Giữa Những Mùa Thi được giải thưởng của báo Phổ Thông, có ra mắt tại Nhà hàng Thanh Thế do tuần báo Phổ Thông tổ chức, có ban Mây Tần ngâm vịnh. ..Sang Hoa Kỳ đệ viết lại do nhà văn quá cố Hư Chu thôi thúc và gửi bài thơ cho nhà báo Chử Bá Anh. Ðệ trúng giải Nguyễn Du. Lại một vụ ngáp ruồi nữa, có vậy thôi. Sau này đệ chán không lấy tên mình gửi bài nữa, mà để con gái đứng tên với mục đích kiếm báo chí đọc chơi thì lại trúng giải của hội The Young Scientic. Số đệ hay ngáp ruồi vậy đó. -Báo đã cộng tác gồm: Tiếng Chuông, Ngôn Luận, Tiếng Vang, Tự Do, Ðẹp, Phổ Thông, Hương Quê, Y Tế, Y Học Thường Thức, Ðoàn Kết, Hải Ngoại Nhân Van, Văn Nghệ Tiền Phong vv.. Ðệ gửi hầu ÐC một số bài tượng trưng để tùy ..chọn hộ..là vì muốn tránh cái quan niệm Văn Mình, Vợ Người có thể làm đệ không được khách quan trong việc chọn bài… Chúng tôi với Lạc Thủy Ðỗ Quý Bái quen nhau hoàn toàn vì duyên văn tự 4, 5 năm nay. Tánh tình vui nhộn, nhanh nhẹn, lại đa tài… anh dễ chinh phục cảm tình của người nghe. …Lạc Thủy tương đối còn trẻ, nhưng đã tỏ ra nắm vững luật thơ, ngay cả Ðường thi, qua những vần thơ điêu luyện, hoa mỹ, dù đượm vị chua cay với xu hướng trào lộng, khinh thế ngạo vật… ĐỖ TIẾN ĐỨC Cựu sinh viên Trường Quốc Gia Hành Chinh Saigon trước 1975, Đỗ Tiến Đức là một nhà báo, và cũng là một nhà văn có nhiều tác phẩm được độc giả hoan nghênh. Đối với chúng tôi, ông là một đồng môn trè, có nhiều thanh tich trong nghề nghiệp, nếu không nói là may mắn. Điểm đặc biệt là tốt nghiệp về hành chính, ông chưa bao giờ đăm trách chức vụ nào vê chuyên khoa này; công tác đầu tiên khi mãn khóa là giám đốc một Đài Phát Thanh, và sau đó là giám đốc Nha Điện Ảnh Bộ Thông Tin, cho đến ngày bỏ nước ra đi (sau khi mãn tù cải tạo)… Từ ngày qua định cư ở Mỹ, ông chuyên làm báo và thành công (tờ Thời Sự ở Nam California) và đã đảm nhiệm vai trò chủ tịch Hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chính một thời gian dài (từ giữa thập niên 1980). Trong số những cựu thủ lĩnh lớp mới và trẻ của Chính Quyền Cộng Hòa Miền Nam - sau 1955, người ta khó thể quên bạn Đỗ Tiến Đức, cùng một số tên tuổi khác, như Nguyễn Đình Xương, Nguyễn Bá Cẩn, Châu Kim Nhân… Với NV, dù chỉ mới gặp nhau đôi lần, chúng tôi đã trở thành thâm giao, mà riêng phần ông, đã giúp chúng tôi tận lực…tận tình mọi việc, nhất là trong dịp ra mắt mấy tác phẩm thơ văn mới ở Khu Little Saigon Nam Cali cách đây hơn mười năm… Trong những tác phẩm của ông, có một số xuất bản ở nước ngoài, như Lối Vào, Tiếng Xua, Vầng Trăng Trong Mưa… những tập truyện ngắn, dài…rất được độc giả hâm mộ, Đ Ô N G A N H Đông Anh là bút hiệu của Nguyễn Đình Tạo, sinh năm 1933, quê quán tại huyện Đông Anh trước thuộc tỉnh Phúc Yên, nay là ngoại thành Hanoi. Năm 1954, học khóa Cương Quyết Phụ Trường Võ Bị Liên Quan Đà Lạt, ra trường tháng 10 năm 1954. Đơn vị đầu tiên là Tiểu Đoàn 55 Việt Nam hay còn gọi là 55BVN. Tù Cải tạo 9 năm. Vượt biên tới Galang năm 1985. Qua Mỹ năm 1986. Hiện định cư tại San Jose, California. Đã in: Chín Năm Tù Ngục 1989; Chim Di Trú 1997 và Hoa Giáp Đông Anh 2000-Thơ Đông Anh và chúng tôi quen nhau cũng vì mối duyên văn nghệ. Cách đây hơn 10 năm, sau khi cuộc thi Thơ Liên xứ Kỳ 1, 1995 hoàn tất, chúng tôi được ông tiếp xúc nhờ phụ trách tổ chức Giải Thi Thơ & Câu Đối Hội Tết hàng năm dù đang bận nhiều công việc. Sau đó, chúng tôi đã sát cánh nhau làm việc để giúp Thi Đàn Lạc Việt bành trướng hoạt động. Bản tính khiêm tốn, ông là người đa năng, hào phóng- ngoài tài làm thơ - nên rất được lòng văn thi giới và thân hữu. Nặng mang tâm sự của một kiếp luân lạc, ông viết trong lời Tựa của tập thơ Chim Di Trú (1997):” Từ vùng đất tạm dung, tôi hướng vọng về quê hương…hằng mơ ước có một ngày trở lại.. Đã sinh ra kiếp lênh đênh, Thì đi cho hết mông mênh biển trời !... Vọng quê hương cho lòng thêm ấm lại, Hướng về tương lai để ca tụng tình người! » Nói về Đông Anh, lão thi sĩ Hà Thượng Nhân, (nổi tiếng là thần bút), nhắc lại kỷ niệm ở trong tù :”… Chúng tôi sống bằng thơ. Thật vậy. Có cơ hội là chúng tôi họp nhau đọc thơ.Chính nhờ thơ mà chúng tôi vượt lên trên mọi khổ cực. Thơ như một niềm tin.” Bàn về thơ Đông Anh, Hà tiên sinh nhận định:” … Bởi vì tên tập thơ là “Chim Di Trú” nên ở đây cũng bàng bạc nỗi ngậm ngùi của kiếp sống lưu vong. Lời thơ thật trữ tình và nhân bản (như trường hợp sau đây:) Dừng quân bên suối chiều hiu hắt Nhìn sao rừng nhớ sóng mắt người yêu Thơ (ĐA) đẹp vì đôn hậu, đôn hậu ngay cả trong giây phút hờn…” Giới thiệu tập thơ xướng họa “Hoa Giáp Đông Anh”, ông viết:” Cái tâm sự của một người ngoài sáu mươi tuổi, mang nặng nỗi nhớ, niềm thương. Đó cũng là tâm sự chung của những người sống lưu lạc trên đất lạ.” Chúng tôi nghĩ cao kiến của Hà Tiên Sinh đã quá đủ để đánh giá thi tài và nói lên sự thành công của Đông Anh về thơ ở hải ngoại. H À B Ỉ N H T R U N G Họ tên: Hà Bỉnh Trung, sinh năm 1922. Trước 1975, tham gia Làng Báo từ 1951 (Chủ Bút Tuần Báo Quê Hương- Hànội; Nguyệt San Dalat Tiến- 1954 - 55). Sau 1975 cư ngụ tại Virginia (Mỹ). Chủ bút tập san Cỏ Thơm Virginia,1996; -Sáng lập Câu Lạc BộVăn Học Nghệ Thuật vùngWashington D.C. Sức sáng tác của ông thật phong phú và khá đều đặn, tính đến năm 1999, ông đã có hơn 14 tác phẩm trình làng, riêng về thơ đã có 6 tập (đến nay là 10). Với một người cỡ tuổi cổ lai hi, sự làm việc bền bỉ, dũng mãnh như thế thật đáng ngưỡng mộ. Riêng về phần thơ, người ta nhận thấy, càng về sau thơ ông- vốn đã vững vàng, súc tích - càng đổi mới, cả về ý từ lẫn thể điệu. H À H U Y Ề N C H I Họ Tên: Đặng Trí Hoàn. Sanh năm 1935 tại Hà Đông – Bắc Việt Nam.Di cư vào Nam năm 1954.- Tham gia Khóa 14 Trường Vo Bị Quốc Gia Dalat, 1957. Định cư: ở Mỹ sau năm 1975 tại bang Washington. Hoạt động : Làm thơ từ thiếu thời. Đã in: trên dưới 30 thi phẩm thơ và văn (2005) Thơ: 1 . "Saut" Đêm, 1963 * 2 . Còn Gì Cho Anh, 1971 (Giải Văn Học Nghệ Thuật 1971) * 3 . Cho Mặt Trời, 1975 * 4 . Tên Nô Lệ Mới, 1979 * 5 . Như Đá Ngàn Năm, 1981 * 6 . Cõi Buồn Trên Ta, 1984 * 7 . Đời Bỗng Dưng Thừa, 1987 * 8 . Không Gian Vương Dấu Giầy, 1988 (Hành Trình 30 Năm Thơ Hà Huyền Chi) * 9 . Thơ Đen, 1991, biếm thi, dươ'i bu't hiệu Mậu Binh * 10 . Thơ Kẽm Gai, 1994, biếm thi, Mậu Binh * 11 . Tha'ng Một Buồn, 1994 * 12 . Thơ Trong Da Ngựa, 1995 * 13 . Một Túi Bình Sinh, Một Túi Thơ, 1996 * 14 . Đồng Thiếp, 1966 * 15 . Bão Đầy, 1998 * 16 . Bên Trời Mài Kiếm, thơ song ngữ Việt-Anh, 1999 * 16 . Sóng Ngầm, 2003. * Truyện dài: 1 . Rừng Ái Ân, 1970 *2 . Vũng Tối Đầy, 1970 * 3 . Khu Vườn Chim Sẻ, 1970 * 4 . Những Nụ Ga Mòn, 1970* 5 . Bước Đam Mê, 1971 * 6 . Mưa Đêm Trong Chiến Hào, 1971 * 7 . Trên Cánh Đồng Mây, 1974 *8 . Thằng Thái Bình, 1974 * Hà Huyền Chi tập làm thơ từ rất trẻ. Chỉ nhập thơ lúc trưởng thành. Bài đầu tiên được đăng trên tờ Chiến Sĩ Cộng Hoà: "Không Gian Vương Dấu Giầy". HHC hiện cư ngụ tại Washington State, Tây Bắc Hoa Kỳ, tiểu bang mưa, khiến ướt thơ, lạc tuổi… Bởi thơ và nhạc vốn không tuổi . Tác phẩm đầu tay: "Saut" Đêm, thơ, 1963. Đã in 16 tập thơ, 8 truyện dài . (Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật bộ môn Thơ, 1971) Đóng 8 phim và đạo diễn 2 phim. (Giải Tương vàng 1972, Đạo diễn xuất sắc nhất, bộ môn phim tài liệu) Tính đến tháng Tư 2003, HHC đã có 282 bản nhạc phổ thơ, bởi 41 nhạc sĩ. (Bao gồm CD Quý Hương với 12 bài nhạc phổ bởi Mai Anh Việt ) Bản được nhiều người ưa thích là Lệ Đá, với Trần Trịnh và bài Goá Phụ Ngây Thơ, vơ'i Trần Thiện Thanh. "Always, Hahuyenchi's a sweet lover. Always, Hahuyenchi's a soldier fading out never!""Mãi mãi, HHC người tình son trẻ, Mãi mãi, HHC người lính không già" Hà Huyền Chi là một (trong những) nhà thơ Việt Nam nổi tiếng nhất ô nửa sau thế kỷ 20, với số lượng tác phẩm phong phú và ngòi bút điêu luyện, tài hoa. Sau 1975, chúng tôi gặp nhà thơ nhân dịp ông ghé Bắc California ra mắt 2 thi tập mới cùng với nữ sĩ Tuệ Nga, vào tháng 6/1994. Đã có nhiều người viết về Hà Huyền Chi, ông được biết đến không những trong quân đội mà còn ở ngoà . Có thể nói với số tác phẩm...đồ sộ đã ấn hành và qua bút pháp táo bạo, tài hoa... ông đã đóng góp một phần không nhỏ cho kho tàng văn học Việt Nam trong và ngoài nước. HÀ LY MẠC Họ tên: Võ Đăng Diệu. Sinh 14/10/1940 tại Mỹ Lộc- Lệ Thủy Quảng Bình. Vào Nam năm 1954. Đến Mỹ từ 1990 - Định cư ở San Jose. Cựu Thiếu tá Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa…Thích làm thơ và ngâm thơ. Tham gia các cơ sỏ văn học ở vùng Vịnh như Thi Đàn Lạc Việt, Thi Văn Cội Nguồn…và ở các bang khác như Texas … Chưa có tác phẩm inra…Đã quá vãng ở San Jose…không rõ thời điểm. Thơ ông làm khá nhiều, vững vàng niêm luật, đẹp ý lời… và gây nhiều cảm xúc… Xin trích đăng bài thơ Nỗi Đau của ông trong tuyển tập Một Phía Trời Thơ I in năm 1995 …để quí bạn thưởng thức… NỖI ĐAU Sáng nay tôi gọi tên tôi Mà nghe sao lạ như người không quen Thì ra mình đã quên mình Hỏi ra còn nhớ chuyện nghìn năm xưa Ngày hôm qua, khác bây giờ Có đâu Chung Thủy hẹn chờ kiếp sau ! Nghe chuông điện thoại mà đau Bài thơ em đọc nát nhầu hồn tôi Từ nay đã mất em rồi Tôi làm Cánh Hạc giữa trời gọi sương Bay về với đỉnh cô đơn Trả em lại lũng hoa vàng Thu ơi ! HLM H À T R U N G Y Ê N Họ tên : Nguyễn Ngọc Châu -Bút hiệu khác: Lê Nhật Thăng, Ngọc Dạ Lý Hương, Nguyễn Thế Phổ, Thanh Thịnh, Nguyễn Nghiêm Huy, Nguyễn Hàn Sơn, Nguyễn Tân Cơ, Viễn Chi… Sinh năm 1936 tại tỉnh lỵ Phúc Yên (Bắc Việt Nam) -Hiện cư trú: Tucker, Georgia (Mỹ).Trước 1975 họcTrung học tại Hà Nội. Bắt đầu viết từ 1952 – Thơ đã in: -Hồi tưởng- 1969 ;-Những Khối Vuông Tâm tình 1984; -Niềm Xanh - 1985;- Hương Xa -1986; -Âm Vang Thơ Nhạc-1994; Gợn Chiều; Quê Lòng; Niềm Thơ; Hương Nắng; Suối Tiên - 2003; Bước Đời; Theo Vần; Dư Hương-2006 - Phúc Yên (hồi ký). Cộng tác với các báo Việt Nam ở Mỹ, Canada, Đức, Úc…- Chủ Bút Nguyệt San Rạng Đông, Việt Nam tại Atlanta, Georgia và Orlando, Florida - Giải thưởng Thơ báo Tiến Lên Hà Trung Yên thành danh đã lâu. Ba tác phẩm thơ đầu, trên dưới 300 bài thơ đủ thể loại (bốn chữ, ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát, thơ Luật, thơ mới …) với các đề tài thời cuộc, tình cảm Quê Hương, Đất Nước, Xã Hội … sức sáng tác của ông thật sung mãn. Thơ ông niêm luật vững vàng, ý từ mới mẻ, kỹ thuật diễn tả uyển chuyển, nhiều màu sắc, lời đẹp, vần điệu nhẹ nhàng… đọc thoải mái và cảm động. Ngoài thơ, ông còn viết rất nhiều, đủ bộ môn (truyện, ký, phê bình..) và đã có những thành tựu rất đáng kể. H O A H Ư Ơ N G D Ư Ơ N G Họ tên: Nguyễn Ngọc Minh. Bút hiệu: Hướng Dương, Hoa Hướng Dương.Sinh năm 1953 tại Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang Việt Nam. Trước 1975: giáo chức. Định cư: San Jose, Bắc California 1975.Hoạt động văn học: -Thơ đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Mới...Chúng Nhân, Sóng Việt, Dân Ta... -Tham gia Thi Đàn Lạc Việt - Thơ in chung : Một Phía Trời Thơ 2,3,4,5, TT Xuân Thu, Thi Văn Viễn Xứ... - Ra mắt CD Gẫy Cánh Kiêu Sa, Mùa Xuân Đã Mất gồm 14 bài thơ phổ nhạc năm 2004 tại San Jose. Hướng Dương (nay là Hoa Hướng Dương), mới xuất hiện ở vùng South Bay hơn 10 năm nay, từ khi tham gia hoạt động với Thi Đàn Lạc Việt vào khoảng 1994. Trước 1975, vốn là một giáo chức ở vùng Phú Quốc, Dương Đông...nên khi sáng tác, thơ bà chan chứa những hình ảnh, tình cảm trong sáng, êm đềm... yêu thích biển với sông, đồng ruộng, mái trường...như ta gặp trong bài Nhớ Dòng Sông Xưa: Nầy chị, nầy anh, nầy em bé nhỏ, Hãy cùng tôi về thăm lại Dương Đông. Quê hương ta tháng năm đầy sóng gió, Sóng gọi nước về thành một dòng sông. .....Hay trong bài Dấu Xưa: Trời Phú Quốc xanh màu hi vọng Đất Dương Đông thắm mộng ân tình Tôi về chiều nắng lung linh Chân qua chốn cũ nhớ tình năm xưa…. Số phận nghiệt ngã tuy thế, vẫn chưa chịu buông tha người đàn bà đa sầu đa cảm khi HHD bị mắc chứng khiếm thị; cuộc đời đối với bà từ đó chỉ còn là bóng tối. Nhưng với bản tính kiên cường, bà đã dựa vào nguồn cảm súc dồi dào sẵn có để quên, để sống thật với lòng mình, và trầm lặng theo đuổi con đường đã vạch ra. Thành quả khá tốt đẹp khi bà tổ chức ra mắt một số CD nhạc phổ thơ của mình, và trong tương lai gần một tuyển tập Thơ (gồm 110 bài) và Văn sẽ được in ấn để đánh dấu hoạt đông tích cực của bà. Đây có lẽ là một gương sáng và một thành tích đáng ca ngợi (nếu ta liên tưởng đến trường hợp của nữ y sĩ khiếm thị Jane Poulson (mất năm 2001) ở Canada ở tuổi 49… HOÀI VIỆT Họ tên: Lê Trọng Hiền/ Sinh năm 1950 ở Qui Nhơn Tỉnh Bình Định Trung Việt Nam. Thích thi văn từ thủa nhỏ - Trước 1975, cùng bạn hữu ở Qui Nhơn lập nhóm thơ Huyền Vũ. Sau khi qua Mỹ, định cư ở San Jose. – Đầu 1991, cộng tác với nhà thơ Thượng Quân Lê Văn Săc, chủ trương nguyệt san Thơ Về Nguồn, Ra được 4 (5) số thì tạm đình vì lỗ lã. Năm 1992, trợ lực nhóm thơ Dương Huệ Anh ở San Jose tổ chức các Hội Thơ Định Kỳ một thời gian… cùng vói nhà thơ TQ Lê Văn Sắc… Đã in : Thơ Hoài Việt – Dòng Thơ Hải Ngoại (Biên khảo) 1993… H O À N G D U Y Họ Tên : Lê Văn Ba. Sinh quán: Dương Xuân, Nhân Hạnh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định. -Bút hiệu khác : Lê Quang Cảnh, Phương Sơn Hải, Thái Bá Huệ, Người Tây Sơn… -Học lực: Cử Nhân Giáo Khoa Triết Học Đông Phương Sàigòn, 1967. Trước 1975: Khóa 13 Sĩ quan Thủ Đức -Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 BB - 1962 66 ; Giáo chức Hòa Tân, Sông Cầu, Cường Để, Sư Phạm Qui Nhơn; - Chủ Tịch Hội Giáo giới Bình Định, Qui Nhơn. -Sáng lập Trung Kinh Nghĩa Thục (trung học miễn phí), sĩ số 1000 tại Qui Nhơn; -Hội viên Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục.-Tù cải tạo trại Kim Sơn 1975; -Thuyền nhân 1985 tại Galang; -Định cư Mỹ 1986. -Trưởng Thi Văn đoàn Hương Việt Nam Cali.- Góp mặt: trên các báo Bình Định, Tiếng Dân, Sóng Thần, Điện Tín (trong nước); -Hoa Sen, Pháp Duyên, Phố Nhỏ, Diễm, Tình Thương, Hồn Việt, Pháp Âm, Viễn Xứ... -Đã In: -Nghĩa Thục Xưa và Nay (khảo luận),Trung Kinh 1972; -Tình Người Vượt Biên (Thơ) -Hướng đông, 1991; -Nụ Hồng Tình Yêu (Thơ) -Thế Giới 1992; Như Bóng Mây Bay (Thơ)-Hướng Dương, 1996; Bát Ngát Hương Đời (Thơ) -Nguồn Sống 1996; -Dạo Bến Sông Trăng (Thơ), Nguồn Sống, 1999; -Thong Dong Từng Bước-Thơ- 2004… -Sẽ In: Chân Dung Hoàng Đế Quang Trung (khảo luận); - Lửa rực Trường Sơn (tiểu thuyết); Hoa Du Hành Trình (ký sự) … NT Hoàng Duy với chúng tôi thân quen nhau cũng vì mối duyên Thơ. Khi Thi Đàn Lạc Việt sửa soạn thực hiện Tuyển tập Một Phía Trời Thơ 1, 1994, ông là (một trong những) người hưởng ứng đầu tiên. Đồng thời, ông và nhóm thơ Hương Việt do ông sáng lập cũng vận động in tuyển tập Tiếng Thơ Hải Ngoại đầu tiên ở miền Nam California. Và chỉ trong vòng 10 năm, riêng phần ông đã trình làng 6 thi tập, gộp chung trên dưới 1000 trang, thật là hiếm có. Chúng ta cần ghi nhận sự cố gắng đáng khâm phục của ông, một người hàng ngày bận rộn, đa đoan nhiều công việc. Bàn về thơ Hoàng Duy, nữ sĩ Vân Nương nhận xét: ” thơ thật điêu luyện, nhất là thể lục bát, kể cả thơ mới…” Theo ý Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, cựu Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa, Sàigòn, - tức thi sĩ Trần Hồng Châu :”…Thơ Hoàng Duy cũng giản dị, khuôn phép mực thước như tác phong một nhà giáo...Nguồn cảm hứng đã được chuyên chở bằng một ngôn ngữ và một kỹ thuật tương đối đều tay, từ đầu đến cuối tập..” Nhà thơ Huy Trâm cũng nhận định: “ Ý thơ (HD)chân thực, nhân bản... đem lại cho thi ca hải ngoại những màu sắc dễ thương...” Với những nhận xét trên đây, nghĩ đã nói đủ về con người và thơ Hoàng Duy, và hẳn ông sẽ có một vị trí tương xứng trong làng thơ Việt Nam ở hải ngoại. H O À N G H Ư Ơ N G T R A N G Sinh ngày 03/04/1938. Quê quán Vân Thê, Hương Thủy, Thừa thiên (Trung Việt). Họ Tên khai sinh: Hoàng Thị Diệm Phương. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ Thuật- Huế (1960) và Sư Phạm Kỹ Thuật Sài Gòn (1961). Giáo sư Việt Văn và Hội Họa các trường Trung Học, Đại Học. Thơ đã in: Khép Đôi Mi Nhỏ (1956); Linh Hồn Cỏ Biếc (1965); Túy Ca (1972); Hợp Tuyển (1974), Mây Nổi (1994)… không kể Thơ in chung. Hoàng Hương Trang là nhà thơ nổi danh từ trước 1975 ở miền Nam; sau cuộc biến thiên 30/4, trải qua bao nhiêu thử thách bà vẫn đứng vững, và tiếp tục sáng tác. Thật đáng ngưỡng mộ. Dịp gặp bà sau này, chúng tôi đã trao đổi nhiều ý kiến hữu ích để xây dựng tinh thần hợp tác và tương trợ giữa các văn nghệ sĩ ở trong những tình trạng khó khăn. H O À N G A N H T U Ấ N Sanh ngày 07/5/1932 tại Hà Nội. Ngoài tài làm thơ, viết văn, viết kịch (Ly Nước Lọc Hà Nội 1948), ông còn là đạo diễn địện ảnh - 1949 : Du học Pháp. 1954: Lập gia đình. 1958: Về Việt Nam. Cộng tác với các tạp chí văn nghệ cùng nhiều tuần báo, và nhật báo ở Sàigòn.1965: Quản đốc Đài Phát Thanh Đà Lạt. 1975: Tù cải tạo. 1979: Trở qua Paris. 1981: Sang Mỹ. Cư trú tại San Jose Bắc California. Hoàng Anh Tuấn đã nổi danh từ trước 1975. Ông là người đa năng, ngoài viết văn, làm thơ, phóng họa… còn là một đạo diện điện ảnh có hạng. Thực sự, chúng tôi chỉ thân nhau từ ngày ông di qua Mỹ và trở lại làm báo và văn nghệ. Tính nết bộc trực, y phục xuề xòa…ông dễ làm người ta gần gũi. Gặp nhau bất ngờ trong một lớp tìm hiểu nhân điện buổi tối, chúng tôi mau chóng trở nên thân nhau, và sau đó không lâu, ông đã cộng tác, trợ giúp chúng tôi một phần trong dịp ra mắt tập thơ đầu tay ở hải ngoại, - Huyền Ca Diễm Ảnh 1, 2 - vào cuối tháng 6/1991. Và, cuối cùng, thì ông cũng nể tình đứng vào ban vận động lập hội Văn học Nghệ thuật và Thi đàn Lạc Việt, nhưng chỉ có mặt một lần duy nhất trong buổi họp đầu tiên.Thời gian sau, sức khỏe dần kém, ông ít xuất hiện trong các sinh hoạt cộng đồng (và văn học), và sau này được điều trị trong một an dưỡng viện không xa thành phố. Bản tính ông không thích ồn ào, phô trương… nhưng năm 2005, bạn bè và thân thuộc đã tự động gom nhặt (một số) thơ của ông in thành tập Thơ Hoàng Anh Tuấn, Yêu Em Hànội...và đặc biệt là thi phẩm này đã được long trọng trình diện trước một số thân hữu... ngay trong dưỡng lão viện ông tá tuc ở địa phương . Về thơ, ông không sáng tác nhiều, nhưng bài nào cũng đắc thể, - nhất là lục bát- với vần điệu chặt chẽ, ngôn từ óng chuốt, ý tứ tân kỳ... HOÀNG NGỌC LIÊN Họ tên: Hoàng Ngọc Liên Trước 1975: Sĩ quan Tâm Lý Chiến Sư Ðoàn Nhẩy Dù. Việt Nam Cộng Hòa. Sau 1975: Tù Cải Tạo- Qua Mỹ theo diện HO, đầu thập niên 1990. Hoạt động: Làm văn, làm thơ, viết báo…Tác phẩm đã in: 8 -Hình Ảnh Những MùaTrăng (tập truyện) -Nam Sơn, SaiGòn 1959 ; Nhớ Thương (Thơ)- Lê Thanh Thư xã, Sài Gòn, 1962;- Vẫn Còn Thương (Thơ)- Giao Ðiểm, SaØi Gòn 1964; -Khung Trời Tưởng Nhớ (Thơ)- Trí Dũng, Sài Gòn, 1966;- Ðoàn Quân Mũ Ðỏ (Truyện Dài), Chấn Mỹ-Sai Gòn 1969;- Theo Bước Anh Ði (Truyện Dài), Khai Trí-Sài Gòn 1972;-Tuyến Lửa Ðầu ( Phóng sự Tiểu thuyết) Khai Trí, Sài Gòn, 1974; Viên Ðạn Cuối Cùng (Tạp văn) Văn Tuyển, Hoa Kỳ, 1999;- Sẽ In:Một Phương Trời Nhớ (Thơ);-Những Chuyện Nhớ Hoài (Tạp bút)… Ða số bài nhà thơ gửi đến đều dài, chứng tỏ sứ sang tác dôi dào và sung mãn của tác giả . HOÀNG NGỌC THÚY Sinh tại Vĩnh Yên - Bắc Việt Nam. Di cư vào Nam 1954 - Trước 4/1975: Cựu nữ sinh Trưng Vương, cựu siinh viên Văn khoa . - Biên tập viên Đài Phát Thanh/ Truyền Hình Saigòn. Sau 4/1975: Định cư ở Mỹ cuối 1990 - Chủ trương nguyệt san Quê Mẹ San Jose 1994. Sở thích: Làm thơ - Viết Văn, viết báo - Nhiếp ảnh… Đã sinh hoạt với các hội đoàn: Cựu nứ sinh Trưng Vương- Hội Nhiếp Ảnh Bắc Cali. - Thi Đàn Lạc Việt San Jose . Cô HN Thúy là một nghệ sĩ đa năng, có tinh thần dấn thân và tích cực tham gia, hỗ trợ các hoạt động văn hóa, nghệ thuạt bất vụ lợi …Thơ cô sáng tác không nhiều nhưng lời lẽ thiết tha, chân thực…đọc rất cảm động.. Xin tìm đọc thêm thơ cô trong tuyển tập Một Phía Trời Thơ I do Thi Đàn Lạc Việt ấn hành năm 1995 tại San Jose - vùng Thung lũng Hoa Vàng (Băc California)… HOÀNG NGỌC VĂN Sinh ngày 19/01/1939 tai Xuân Ninh, Hải NInh Bắc Việt Nam. Làm thơ tư trước 4/1975 và tiếp tục làm khi đến Mỹ (năm 1979). Cựu chiến sĩ Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng Hòa…Thích thể thơ trào phung và lãng mạn … Năm 1995, tham gia Thi Đàn Lạc Việt, giúp đỡ vô vị lợi phần in ân tác phẩm Một Phía Trời Thơ I, dầy 500 trang , gồm 37 tác giả ở vùng Thung Lũng Hoa Vàng… Tác phăm in riêng : Lãi Được Tiếng Cười… HOÀNG TẦM PHƯƠNG …Tháng 4/2005, NV trở lại VN thăm thân thuộc ngoài Bẵc, có cơ hội được bác sĩ Trương Thìn, một bạn trẻ đa tài/ đa năng… ngỏ ý giúp tổ chức một buổi trình diễn Thơ Nhạc riêng ở ngay Viện Y Học Dân Tộc, đường Nguyễn Văn Trội, Saigòn, vào tối ngày 16/4, nhân dịp tác giả đến tham khảo với ông về vài vấn đê y học Đông phương và nghiên cứu Truyện Kiều. Thời gian gấp rút, nhưng kết quả cũng OK tuy rằng thiếu sự sửa soạn... có chừng 50 bạn/khách đến tham dự, trong đó có gs Lê Cao Phan,- tưc là Hoàng Tầm Phương -, các nhà thơ Hoàng Hương Trang, Trụ Vũ, bạn cố cựu Nguyễn Tất Tuyến (Gamo 1953), các nghệ sĩ bạn như Đoàn Yên Linh, Hồng Vân, Thúy Vinh… phần điều khiển chương trình do cô Đài Trang phụ trách. Sau khi ăn tối, menu do bs Trương Thìn đặt làm hộ, buổi RM diễn ra một cách nhuần nhuyễn, lớp lang… Chương trình gồm có: - Đón chào quan khách/thân hữu - Ban Tổ chức ngỏ lời - Giới thiệu tác giả: giáo sư Lê Cao Phan - Lời cảm ơn của tác giả - Góp ý của thân hữu – Trình diễn Thơ Nhạc…có thâu băng video làm kỷ niệm… Bs Trương Thìn có làm tại chỗ một bài nhạc ngắn tặng tác giả nghe khá hấp dẫn, hai diễn giả chính là giáo sư, nhà thơ Hoàng Tầm Phương (Lê Cao Phan) và thi sĩ/họa sĩ Hoàng Hương Trang… Dù kết quả như thế nào, NV cũng cũng thấy vui vì được cô Vũ Thu Cúc, con (nuôi) dì Thừa - Thủ Đức hết lòng giúp đỡ và mấy cô (cán bộ?) đang điều trị trong bệnh viện khen ngợi, khuyến khích...Gs Lê Cao Phan có làm một bài thơ Hán văn tặng tác giả DHA để làm kỷ niệm, xin được ghi lại: HÓA GIẢI Trang ký Dương Huệ Anh hiền hữu Hỉ kiến Dương Quân tái phục hồi Cố hương tình nghĩa bất vong hoài Giao thoa khẳng chức dư đồ cẩm Túy yến trường tư tri kỷ bôi Giới tuyến văn chương cầu hóa giải Sơn khê thi nhạc vọng tài bồi Thân sơ bằng hữu hoan nghinn tụ Vạn lý trùng dương phủ viễn nhai Bản dịch của giáo sư LCP Hóa Giải Thân gửi bạn hiền Dương Huệ Anh Dương Huệ Anh nay lại trở về Dĩ nhiên, Người vốn chẳng quên quê Con thoi dệt gấm tình non nước Cánh én say men rượu bạn bè Văn học duyên mong mờ giới tuyến Thi ca lòng ước thấm sơn khê Vui cùng bằng hữu xa gần họp Muôn dạm trùng dương vẫn cận kề HTP- LCP 359 Nơ Trang Long Q. Bình Thạnh- Tp HCM- VN Xin ghi thêm là thi si HTP (Lê Cao Phan) cũng là một họa si có tài và một nhạc sĩ nổi danh…đã giúp chuyển dịch thơ của một số thi gia tiền chiến, qua ngoại ngữ để phổ biến ở nước ngoài, gần đây nhất có Huy Cận,- cũng như sáng tác nhiều ca khúc cho các đoàn thể trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; giáo sư Lê đã nhận được nhiều bằng Tuyên Dương, và Giải Thưởng cao quí của những hội đoàn, cơ sở hữu quan. Trong danh sách tham dự viên ghi lại, thấy có các nhà thơ/nhà văn địa phương và vài thân hữu như: Ngô Đình Cung, Mai Thanh Trực, Trần Quốc Lập, Nguyễn Văn Thuận, Tôn nữ Hỉ Khương, Trần Mộng Thu, Bạch Phụng, Trang Mỹ Dung, Diệu Mai, Diệu Thanh, Dương Hà, Phương Nhẫn, Trần Bích Nhơn, Lâm Bích Thuận, Phạm Thị Cam, Trần T Ngọc Hồng, Trần Đỗ Liêm, Nguyễn Thị Tân, Bích Bửu Đoàn Ngọc Tri…một vài người trong đó (TThNH) sau trở thành bạn thân… H O À N G X U Y Ế N A N H. Họ Tên: Ôn Quế Anh. Sinh: 15/9/1946 tại Long Đức, Trà Vinh, Việt Nam. Trước 1975: Giáo sinh Trường Sư Phạm Vĩnh Long; Dạy học các trường công lập Vĩnh Bình. - Định cư : tại Concord, Mỹ từ đầu năm 1981. - Có thơ đăng: trên các báo Thời Báo, Mõ, chiến Sĩ Quốc Gia, Duyên, Đất Đứng, Thời Sự, Diễn Đàn San Jose, Việt Nam Nhật Báo, đặc san Thăng Tiến, Xây Dựng Cộng Đồng, California... -Thành viên TT Văn Bút VN Bắc Cali; Thi Đàn Lạc Việt; Thi Văn Đoàn Bốn Phương, Hội Thơ Tài Tử Việt Nam... -Tham gia chung -Tuyển tập Một Phía Trời Thơ 1, 2, 3, 4 và Cụm Hoa Tình Yêu từ 1995 đến nay; Bút Hoa 1,2,3...-Đã in: Nỗi lòng cô phụ (Thơ và băng thơ) -Tình Chơi Vơi (Thơ và CD).; Khung Trời Kỷ Niệm; CD Những Cánh Thơ Tình... Hoàng Xuyến Anh đến với chúng tôi không hẳn là tình cờ. Qua sự giới thiệu của người-thơ-nữ còn trẻ, có cái mỹ danh thật dễ thương, chúng tôi đuợc thêm sự trợ lựckhá nồng nhiệt của Hoàng Xuyến Anh trong hoạt động thi đàn Lạc Việt… lúc ấy còn đang ngập ngừng trong bước khởi đầu. Hoàng Xuyến Anh vươn lên từ những nỗi bất hạnh dồn dập trong cuộc đời, từ những mất mát lớn lao của một tâm hồn đau khổ đến tột cùng, bật thành tiếng khóc - nên-thơ. Góp ý về trường hợp Hoàng Xuyến Anh, nhà văn Nhật Thịnh, viết:”...Hoàng Xuyến Anh, mặc dù thời gian cầm bút, đi vào thi giới chưa mấy lâu, coi đây như một giải thoát những phút đơn côi, vơi nhẹ nỗi khổ đau của một cuộc sống vô cùng sóng gió. ...Cách đây mười năm (gia đình bà) đã gặp một tai họa khủng khiếp: một máy bay bỗng từ đâu rơi xuống trung tâm thương mại bà đang mua sắm (Concord), nổ tung, phát hỏa cháy. Thể xác đầy những thương tích, nhan sắc bị hủy diệt, chồng ra đi vĩnh viễn cùng ba con nhỏ thơ ngây. Những đau khổ dồn dập xẩy đến đó đã là động lực thúc đẩy Hoàng Xuyến Anh có những vần thơ khóc chồng, khóc con và ngậm ngùi nhìn trở về mình … ... Phương Tây có một câu thơ rất nổi tiếng, đó là: “Les plus désespérés sont les chants les phus beaux. Et j’en sais d’ immortels qui sont de purs sanglots.” Trường hợp HXA có lẽ cũng không khác. Quả vậy, nhà thơ đã thiếu may-mắn, nhưng giàu-nghị-lực này có thể đã tìm thấy một lối thoát trong hoàn cảnh (gần như) tuyệt vọng của đời mình qua sáng tác những vần thơ chân thành, đầy cảm xúc và hứa hẹn trong hướng đi mới của tương lai… H Ồ C Ô N G T  M Ho Tên : Đỗ Ngọc Minh. Sinh năm 1938 tại Hà Nội. Đại học Sư Phạm (Sàigòn 1964). Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 20 (1965). Biệt phái về dạy Trung học Phổ thông từ năm 1968 đến tháng 4 năm 1975. Khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm Miền Nam, ông bị đưa đi tập trung cải tạo lao động (5 năm, 8 tháng, 20 ngày) tại Long An. Vượt biên tới Thái Lan tháng 4.1983. Sang định cư tại miền Nam California từ tháng 11/1984. Chủ trương tạp chí Dân Chủ Mới từ năm 1990, sau đó, tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn đến tháng 12.2003. Tình cờ, chúng tôi được đọc thơ Hồ Công Tâm (hay Hồ Công Tử - tức Đỗ NgọcMinh) cách đây mười mấy năm trong một cuộc thi thơ ở địa phương tổ chức. Vài năm sau, ông xuất hiện trên các nguyệt san Làng Văn, Dân Chủ Mới, vàsau đó là Hải Ngoại Nhân Văn. Nhân dịp Thi Đàn thực hiện tuyển tập Thơ Việt Hải Ngoại, tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn có phổ biến giúptin tức khá rộng rãi, dù riêng ông lúc ấy, cũng đang bận hoàn tất một hợp tuyển Thơ hải ngoại riêng của nhóm mình. Về phương diện văn chương, chúng tôi rất quí những cây viết có tài, không phân biệt khuynh hướng hoạt động. Thơ ông nặng về đấu tranh, xây dựng đạo lý… niêm luật vững vàng, dù là thơ Đường- từ ngữ phong phú, sử dụng chính xác, lời lẽ uyển chuyển, hoa mỹ, vần điệu nhẹ nhàng….làm người đọc cảm xúc…dễ dàng. Khi xuất bản tập Ngày Tháng Lưu Vong, ông có gửi cho chúng tôi xem bản thảo để góp ý; có lần ông hỏi cảm nghĩ của chúng tôi về thơ ông. Và, chúng tôi đã thành thật trình bày: ” Thi tập NTLV tuy có 3 phần,- Quê Hương -Tranh Đấu -Tình Yêu -… nhưng cùng một bút pháp tài hoa, và phần nào cũng đắc thể .” Hiện nay, ông đã ở tuổi nghỉ hưu nhưng thơ văn vẫn còn thấy xuất hiện đều đặn trên mạng lưới toàn cầu …. H Ồ T R Ư Ơ N G A N Họ tên (theo khai sinh): Nguyễn Viết Quang, sinh trưởng tại Vĩnh Long, em ruột nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Trước 1975: tốt nghiệp khóa 26 (1968) trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, và phục vụ ở Ban Báo Chí Quân Đoàn 3 cho đến 30/4/1975. Trước và sau 1975, đã cộng tác với nhiều tập san và tạp chí văn học. Đã in: trên dưới 40 tác phẩm (truyện ngắn, truyện dài, bút ký văn học…) trong đó có: Lớp Sóng Phế Hưng; Phấn Bướm; Nửa Chợ, Nửa Quê; Tình Trong Nhung Lụa; Lối Bướm, Đường Hương; Tình Đẹp Đất Long Hồ; Trang Trại Thần Tiên; Ngát Thơm Hoa Bưởi, Bông Trà; Chân Trời Mộng Đẹp; Thủa Sen Hồng Phượng Thắm; Giai Thoại Hồng, Thông Điệp Hồng; Bóng Đèn Tà Nguyệt; Cảo Thơm; Theo Chân Những Tiếng Hát; Lai Láng Dòng Phù Sa; Thập Thúy Tầm Phương... Hồ Trường An và chúng tôi quen biết nhau hơn 15 năm nay, sau ngày nghệ sĩ Bích Thuận (Pháp) ghé Thung Lũng Hoa Vàng và hợp tác với Thi Đàn Lạc Việt tổ chức một lớp hướng dẫn Ngâm Thơ đầu tiên ở vùng này. Lớp học có chừng mươi người trong đó có cả nhà văn Ngọc Thủy, lúc đó còn hoạt dộng với nhà báo Quốc Nam. Họ Hồ là người có văn tài, di cư qua nước người mới vài năm đã viết được mấy cuốn bút ký văn học khá dài (Giai thoại Hồng, Thông Điệp Hồng) gồm toàn cây bút nữ, khá ăn khách. Sau đó, ông viết rất đều đặn, -xin xem liệt kê ở phần trên – và nghe nói sách của ông in ra bán chạy vào hàng nhất nhì ở hải ngoại. Điều chúng tôi ngạc nhiên, và ngưỡng mộ là ngoài tàì viết truyện, ký... ông lại làm thơ, và thơ ông rất gợi cảm, với một bút pháp đa dạng, tài hoa (kể luôn thơ Đường)… H U Ệ T H U Ho Tên : Bùi Huệ Thu. Sinh năm: 1945 - Thị xã Dalat- Cao NguyênTrung phần Việt Nam. Làm thơ từ thời ở trường Trung Học Bùi Thị Xuân, Dalat. Bút hiệu: Trần Bích Tiên, Huệ Thu, H.T. Được giải thưởng văn chương về luận văn của Tổng Thống, niên học 1957-58 toàn tỉnh Tuyên Đức-Dalat. Sau 1975: Vượt biên và nếm mùi lao cải, lần đầu, 1977 (ở A-0: 3 tháng và lần sau, năm 1978 ở Côn Đảo (hơn 10 tháng). Hiện cư trú ở San Jose, Bắc California (Mỹ).Sáng lập nhà in và xuất bản H.T năm 1984 tại Bắc Cali. Có thơ đăng trên nhiều báo và tập san Việt Nam ỡ hải ngoại; Đã in:Sương Chiều Thu Đọng, 1991- Mỹ; Mở ngõ Phù Vân 1995; Lục Bát Huệ Thu (1997) Mỹ;Tứ Tuyệt Huệ Thu, 1998Mỹ. …Trong dịp tái xuất giang hồ,- đầu thập niên 90, chúng tôi có nhờ nhà văn Đào Khanh và Vũ Tiến Thủy lo in hộ thi tập Huyền Ca, Diễm Ành 1, 2 để ra mắt. Khi có sách rồi, có mấy bạn bảo chúng tôi ra mắt và mách tìm đến nữ sĩ Huệ Thu chỉ dẫn cách thức tổ chức, vì bả có nhiều kinh nghiệm. Trước đấy, bà đã từng làm công việc in ấn sách của linh mục Lương Kim Định nên chắc sẽ rành việc tổ chức. Rất tiếc, hồi ấy, không gặp được bà, nhưng cái duyên văn nghệ sau này cứ đeo đuổi chúng tôi mãi. Sau khi trình làng tác phẩm (30/6/1991), chừng vài tháng sau thì bà cũng cho ra mắt thi tập “Sương Chiều Thu Đọng” được thi văn giới đánh giá cao. Nhà văn Thụy Cầm, trên tuần báo Duyên, năm 1993, và Diễn Đàn Thanh Niên, Rạng Đông, Dân Ta… đã có bài nhận định về thơ Huệ Thu, xin quí bạn tìm đọc thêm. Ngoài ra, từ thời điểm ấy đến nay, tác giả Huệ Thu đã cho ấn hành thêm mấy thi tập mới là: “ Lục Bát Huệ Thu” và “Tứ Tuyệt Huệ Thu” vào những năm 1997 và 1998. Đây là vài ý kiến của lão thi sĩ Hà Thượng Nhân, một cao thủ hàng đầu về thơ Việt Nam thế kỷ 20, về tập thơ Tứ Tuyệt Huệ Thu mà ông đã vui lòng đáp họa, theo yêu cầu của tác giả: “ Năm 1992 (đúng ra là 1990!) tôi vừa sang Hoa Kỳ được hơn một năm. Một hôm, do Võ Phiến giới thiệu, Huệ Thu đưa đến tặng tôi tập Sương Chiều Thu Đọng. Tôi giở đọc, càng đọc càng vui mừng, sung sướng. Ở xa Quê Hương, còn gì thích hơn được gặp một tâm hồn đồng điệu?Năm 1997, tôi được Huệ Thu cho đọc tập “Lục Bát Huệ Thu”. Huệ Thu còn yêu cầu tôi viết thêm vài hàng cảm nghĩ. Tôi cho đó là một vinh dự. ` Năm nay, Huệ Thu lại có thêm tập “Tứ Tuyệt Huệ Thu” ...Thơ Huệ Thu càng ngày càng cô đọng, càng gần gũi với ngôn ngữ dân gian. Kể cũng lạ. Người ta càng già, càng thích làm những bài thơ ngắn. Khi còn tuổi trẻ ăm ắp sự sống, làm sao người ta có thể dùng những thể thơ kiểu Luật Thi, kiểu Tứ Tuyệt… Làm sao những kiểu thơ này có thể diễn tả nổi những sôi động của cuộc sống thanh niên? Huệ Thu là một tâm hồn thật Việt Nam…Thơ cô dễ dàng như lời nói. Nhưng nắm bắt được thơ cô không phải là dễ. Mái Tây hiu quạnh chùm hoa lý, Mỗi cánh tàn bay một mảnh trăng.. Với ai thì không biết, chứ với tôi thì chỉ với hai câu ấy, Huệ Thu cũng dư làm cho tôi bàng hoàng và kính phục. Tôi từng họa rất nhiều thơ, nhưng những lần họa ấy, thường tôi ít hứng thú. Lần này thì khác.Tôi nương theo ý của tác giả mà phát triển ý của mình. Có thể nói Huệ Thu đã giúp tôi nhiều chất liệu để làm thơ...Tôi thành thật cảm ơn người bạn thơ vong niên này.” (HàThượngNhân-SanJose, ngày 27/7/1998) ...Nhân đây, chúng tôi cũng xin được góp ý với tác giả: Trong “Đôi lời Tình Tự”,- tập Tứ Tuyệt Huệ Thu - nhà thơ có ngỏ ý Không đồng ý với các Thày Cô (của tác giả) về cái định nghĩa thơ Tứ Tuyệt là BÀI THƠ CÓ BỐN CÂU được cắt ra tứ bài thơ tám câu.”Theo Huệ Thu, chữ Tuyệt ở đây có nghĩa là TUYỆT VỜI, chứ không có nghĩa là CẮT ra (từ thơ bát cú). Nghĩ thì cũng có lý, nhưng sự thật, theo tư liệu lịch sử thì chữ TUYỆT ở đây được dùng theo nghĩa sơ khởi là CẮT ra từ (thơ tám câu). Với thời đại đổi thay chúng ta, người sử dụng - có thể bổ túc, gán cho nó một nghĩa phụ, hay một nghĩa mới, như trường hợp một số từ khác. Vả lại, có phải bài thơ tứ tuyệt nào cũng tuyệt vời cả đâu! KATHY TRẦN Họ tên: Trần Thị Khương. Cựu nữ sinh Trưng Vương. Theo học Luật Khoa, Văn Khoa, Sư Phạm ở Saigon trước 1975. Qua Mỹ sau 1975, tốt nghiệp Computer Programer tại Đại Học Des Moines – Iowa. Viên chức Sở Xã Hội Santa Clara.- California. Tác phẩm đá in: Đàn Ong, Đàn Bà (Truyện phiếm. 1997 ) – Được Vay Nụ Cười (Truyện Dài 1998); Nửa Gánh Sơn Hà (Truyện Dài 1999); Không Cần Đàn Bà (Truyện Phiếm 2000); Ngọc Hân (Dã sử 2001) Có truyện đăng trên các báo chí và diễn đàn internet ở Mỹ, Pháp, Canada, Đức… Kathy Trần xuất hiện trên văn đàn hải ngoại hơi trễ nhưng đã mau chóng nổi bật với văn phong đặc biệt, vui và lôi cuốn…và thành tích ra một hơi 5 tác phẩm liên tiếp trong 5 năm! K I M V Ũ Họ tên: Vũ Mạnh Phát. Sinh tại Hà Nội. Cựu học sinh Chu Văn An; Hội trưởng CHS CVA Bắc California.Theo học ngành kiến trúc ở Mỹ - 1959/64 và làm việc trong ngành này. Động viên học trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức .Hiện ở San Jose California. Tác phẩm in: Tình Anh Như Thế Đấy (Thơ song ngữ – 2001); Khi Yêu Em (Thơ song ngữ- 2002); Việt Nam: Những Áng Thơ Tuyệt Tác (Thơ dịch- 2003); Những Áng Thơ Hiện Đại (Thơ dịch- 2004); Hạnh Ngộ Mong Manh (tập truyện- 2004); Miền Đất Lạ (thơ song ngữ – 2006);Cánh Bướm Ngẩn Ngơ (tập truyện – 2006). Sẽ in: Trăng Mật Thiên Niên Kỷ (Thơ song ngữ); 101 Loài Hoa Quí (Thơ song ngữ); Ca Dao Việt Nam (dịch)…. …Kim Vũ với chúng tôi mới biết nhau hơn 10 năm nay qua những buổi hội luận về thơ ở địa phương, trong đó chúng tôi đã cổ xúy là thơ (văn) Việt Nam, muốn dễ phổ cập, cần được (làm bằng sinh ngữ) hay chuyển dịch qua ngôn ngữ nước bạn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó, vì hiện chúng ta thiếu nhân sự (người rành ngoại ngữ có tâm huyết) và phương tiện (tiền bạc), lại còn vấn đề thời gian (tuổi tác) nữa, khó thể vượt qua. Trong số nhũng bạn thơ có khả năng này, chúng tôi được biết có Hoàng Tầm Phương (Lê Cao Phan), Thanh Thanh (Lê Xuân Nhuận), Minh Viên, TyNa... và mới đây là Kim Vũ (bạn KV hoàn toàn đồng ý với thuyết trình viên). Kết quả sơ khởi là từ 2001 đến nay, chúng ta đã được đọc liền 5 tác phẩm thơ của Kim Vũ, với nội dung phong phú, đặc sắc và hình thức trang nhã, ngoạn mục, bằng song ngữ Việt Anh. Đây chỉ là một bước nhỏ, nhưng mong sẽ có một tác động dây-chuyền, đẩy mạnh công tác dịch thuật và sáng tác bằng ngôn ngữ nước bạn chủ nhân , giúp phổ biến rộng rãi thơ văn Việt Nam ở hải ngọai. ` L Ê M Ộ N G N G U Y Ê N Tác Giả là một nhà luật học (hiến pháp), phê bình văn nghệ (trên nguyệt san Nghệ Thuật, Montréal) và thi văn nhạc sĩ, đã trước tác khúc ca Trăng Mờ Bên Suối. TS Lê Mộng Nguyên, Viện Sĩ Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp từ ngày 5/12/1997 (thay thế cựu hoàng Bảo Đại băng hà ngày 31/7/1997), ông cũng là giáo sư Đại Học Luật Khoa và luật sư tại Tòa Thượng Thẩm Paris, từ 1962 đến 1997. TS Lê là tác giả hơn 20 sách biên khảo nổi tiếng bằng Pháp ngữ về Hiến Pháp Đệ Ngũ Cộng Hòa (La Constitution de la 5e République de Charles de Gaulle à François Mitterrand, Nhà xb STH-Paris, in lần thứ 4 năm 1989, - Les systèmes politiques démocratiques contemporains, in lần thứ 4 năm 1994, - La Constitution de 1958, Nhà xb Le Hermès 1996, - Le budget de l’État năm 1997, - Finances publiques năm 1997...), về những chính thể hiện đại và những vấn đề Việt Nam và Đông Nam Á như : Classes sociales et mouvements politiques au Vietnam de 1919 à 1939 (Giải Thưởng Luận Án TS Quốc Gia, Paris 1963), Le Viet Nam au présent (Tuyển Tập, Nhà xb Đường Mới, Paris 1992)... Ông cũng đã viết hơn 200 bài xã thuyết về hiến pháp và dân chủ, phê bình văn nghệ, truyện ngắn, tùy bút, hồi ký, thơ và nhạc... cho nhiều tạp chí tại Pháp, Âu Châu, Úc và Hoa Kỳ, Gia Nã Đại...bằng Pháp ngữ và Việt ngữ. Về Thơ, Ông đã cộng tác: với CHTY (Cụm Hoa Tình Yêu) IV-1998, V-1999, VI-2000, VII-2001, VIII-2002... Fleurs d’amour (Flowers of love) 2000, 2002, 2004 (Tome 1), 2004 (Tome 2) ; Thơ và Truyện hoặc Xã thuyết trong : Đảng Cộng Sản Trước Thực Trạng Việt Nam, Nhà xb Đường Mới 1995 ; Những Vấn Đề Cấp Thiết Của Việt Nam, Nhà xb Tiếng Gọi Dân Tộc, Paris 1995 ; Tuyển Tập Thơ Văn Ái Quốc Mùa Xuân Khởi Nghĩa ! Nhà xuất bản Viet Business Publications, Toronto, Ontario Canada 2003; Tuyển Tập Thơ Văn Hoa Vàng, Nhà xb Hoa Vàng 2003, San Jose - California 2003 ; Thi Văn Viễn Xứ, Tuyển Tập 2, Nhà xb Tình Thơ 2006. - Dịch sang Pháp ngữ sách « Tình sử - Nguyễn Thái Học-Cô Giang » của Trần Quan Long & Linh Linh Ngọc : Une histoire d’amour - Nguyễn Thái Học-Mademoiselle Giang (récit historique) và Trường Ca Tĩnh Thất của Thiến Sư Tuệ Sỹ, Nhà xb Gió Đông, California 2004-2005. Sách mới xuất bản : Contes philosophiques d’Asie (Truyện ngắn triết lý Á Đông), Nhà xb Le Harmattan, Paris 2005), sách sẽ cho in trong Tủ Sách Khởi Hành (Muenchen Germany) : Nhà Văn Hải Ngoại Tập 1 trong năm 2006. …Ngày trước. chúng tôi được biết nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên qua bài Trăng Mờ Bên Suối, một nhạc phẩm được số đông yêu chuộng. Gần đây, khi gặp ông, chúng tôi lại càng cảm phục về sở học vững vàng, rộng rãi và tính tình hòa nhã, tinh thần dấn thân của ông. Lần đầu tiên đọc thơ Lê Mộng Nguyên, chúng tôi càng ngạc nhiên về khả năng đa dạng. đức độ của ông của ông, xin chúc ông sức khỏe dồi dào để phục vụ thêm cho kho tàng văn hóa nước nhà… LÊ NGUYỄN Họ Tên: Nguyễn Thảo Sinh 25/3/1942 tại Vỹ Dạ , Huế -Trước 1975 Bị thương trận 3 lần.Ðơn vị cuối: Trường Cây Mai . 13 năm tù cải tạo.Ðến Mỹ: đầu 1994. Hiện cư ngụ: Orlando, Florida. Có bài và thơ đăng báo trong, ngoài quân đội từ đầu năm 1960 Ðăng trên 70 tạp chí, đặc san, tuyển tập: Văn, Văn Học, Khởi Hành, Làng Văn, Văn Tuyển, Thế Kỷ 21, Cỏ Thơm, Nghệ Thuật, Phố Văn, Phụ Nữ Thời Nay Hải Ngoại,Thi Ca…Khả năngDiễn ngâm (tài tử) và diễn thuyết. -Tác phẩmÐã In:Mưa qua miền Ký Ức (Thơ)-Thơ, Nhạc in chung -Sẽ In:Thi tập Lê Nguyễn (nhiều tập.)Sau trận cười (đoản văn) Những khuôn măt thơ bằng hữu (TG và TP) NT Lê Nguyễn đã ân cần đến với chúng tôi từ năm 1994, ngay sau khi anh mới định cư ở nước người, nhân dịp Thi Ðàn Lạc Việt tổ chức cuộc Thi Thơ liên xứ Kỳ 1, vào cuối năm 1994 ở Mỹ cho cấc nhà thơ đồng hương tị nạn Việt Nam.Rồi tiếp sau đó là cuộc Thi Thơ Kỳ 2, và thực hiện những tuyển tập thơ chung, anh luôn luôn hường úng nồng nhiệt và theo dõi ân cần, khích lệ chúng tôi trong công tác ăn cơm nhà, vác ngà voi ở xứ người. Hàng tuần, anh gọi viễn liên từ miền Ðông nước Mỹ hỏi thăm kết quả và lịch trình in tác phẩm chung, có lần tình nguyện xin phụ giúpmột tay, thật cảm động. Năm 1998, Lê Nguyễn cho ra mắt thi tập Mưa Qua Miền Ký Ức, đánh dấu một bước tiến mới trong hoạt động văn học của anh, tác phẩm được sự ủng hộ của nhiều giớivì những lời thơ chau chuốt, ý tứ mới mẻ, vần điệu gợi cảm, dễ thương.. Và, trong công tác thực hiện Tuyển Tập Thơ Việt Hải Ngoại, chúng tôi lại được sự tiếp tay mau mắn của anh, khiến chúng tôi hết sức phấn khởi và tin tưởng, luôn luôn hướng về tương lai. LÊ TRỌNG NGHĨA Sinh quán: Bắc Việt-Di cư vào Nam: 1954Qua Mỹ: Tháng 4/1975-Trước 1975: Cựu giáo chức.-Sau 1975: Nghề nghiệphiện nay:Chuyên viên Tài Trợ Ðịa Ốc tại Sacramento,California. Góp thơ :Trong Tuyển Tập Cụm Hoa Tình Yêu 3, 4, 5, 6 -Ðã in: 3 thi tập: Những Vần Thơ 1993 -Nàng Thơ 1996-Dưới Hạt Mưa Sa 2000. Chúng tôi được biết Lê Trọng Nghĩa qua nhà thơ Chu Toàn Chung, môt người chuyên làm thơ tình, còn trẻ, nhưng lại thiên về những thể thơ cổ điển. Nghe nói họ Chu là dòng dõi ông Nghè Chu Mạnh Trinh trước đây, thảo nào bút pháp có nhiều nét đặc sắc ngay tự thiếu thời. Sau thời gian ra mắt thi tập đầu tay Những Vần Thơ, khá thành công, Lê Trọng Nghĩa tự nhiên vắng bóng, nghe nói anh đang theo đuổi một nghề nghiệp (và hình ảnh mới) ở một địa phương không xa lắm, đối với vùng Thung Lũng (được gọi là) Hoa Vàng này. Duyên thơ bỗng được nối lại, - nào phải tình cờ- khi chúng tôi có dịp đến thăm địa phương anh đang làm việc, hỏi ra mới biết ngoài nghề chính, anh vẫn kiên trì theo đuổi nghiệp thơ (hay nói cho đúng là Nàng Thơ). Ðang bán tín, bán nghi thì Lê Trọng Nghĩa đã đưa tặng ngay hai tập thơ mới in sau này là Nàng Thơ-1996- và Dưới Hạt Mưa Sa, in chưa ráo mực, chúng tôi chỉ còn biết gật gù, mỉm cười khen :Giỏi quá, xin bái phuc !. Cảm đề thơ Lê Trọng Nghĩa, nhà thơ Chu Toàn Chung viết: Thi nhân không có tuổi già Thơ là tuổi mộng, nhạc là tuổi xuân. Ôi những vần thơ rất đỗi thơ Thi nhân dệt thắm tự bao giờ .. Ngón ngà nhẹ chuyển thơm trang giấy Mực đọng vương tình nét ngẩn ngơ… ...Riêng cá nhân tôi.,.. cũng cảm thông và rung động với những lời thơ thật trữ tình lãng mạn nồng nàn chất ngất hương vị tình yêu...(của anh) Nhà giáo Ðặng Ðình Giới nhận định: .”.Thơ Lê Trọng Nghĩa là biểu tượng mãnh liệt của tình yêu.... Thơ Lê Trọng Nghĩa không nắn nót, chải chuốt, đẽo gọt....Ta hãy nghe LTN (qua bài) yêu ai đến độ ngẩn ngơ, nhiêt cuồng: Yêu ai như sóng yêu bờ Yêu cong triền núi, yêu mờ khói sương.. Hay là:..Yêu ai, đá cũng ngẩn ngơ, Yêu ai, dòng nước thẫn thờ ngừng trôi… Yêu ai, nghiêng ngả núi đồi… (Yêu ai) LÊ TUẤN Sinh năm 1948 tại Hà Nội. Năm 1954, theo gia đình di cư vào Nam. Theo học trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Năm 19 tuổi, chính thức nhập ngũ. Sau 4/1975, đi tù cải tạo 8 năm, trôi nổi từ Nam ra Bắc. co thoi o chung voi cac nha tho Ha Thuong Nhan, To Thuy Yen, nhac si Vu Duc Nghiem. Thích làm thơ, viet truyen… từ ngày đi học, có khá nhiêu văn nghệ và kỹ thuật. nhưng chưa in thi tập nào. Năm 1994, định cư ở San Jose theo diện HO. Đã về hưu. Hiện sinh hoạt văn nghệ với cơ sở Văn Thơ Lạc Việt San Jose ; có nhiêu dong gop giúp ích cho cộng đồng Nguoi Việt dia phuong. Đã thực hiện rất nhiều Video Clips “Man đàm, phóng su” cho VTLV., cũng như Video cá nhân trên YouTube :https://www.youtube.com/playlist?list=PLSJ27mhuBHVM5LsyPA1QatymUFmzCiF5VLouis Tuấn Lê. Và trang Blogspot(http://cuocsongthica.blogspot.com/2018/08/nhu-hat-mua-sa.html… L Ư U T H Á I D Z O Họ tên :Hoàng Huy Năng, hiện định cư ở bang Texas, Mỹ . Trước 1975, là cựu học sinh trường Thiên Hựu - Huế. Gia nhập quân đội miền Nam. Cộng tác với các báo và tạp chí trong nước.Từ 1992, tị nạn ở Mỹ (Houston). Có thơ, truyện ngắn, tùy bút đăng trên các báo Chứng Nhân, Dân Ta, Chàng Kinh Doanh, Việt Báo…- Trúng Giải Nhì: Thi Thơ năm 1996 (không đặt Giải Nhất) do Thi Đàn Lạc Việt (California) tổ chức Đã in: Vòng Bay Định Mệnh Một Loài Chim (Thơ 1992- 97); Vết xước Tình Yêu (Thơ 2004); Đóa Hoa Rừng Lá (Truyện ngắn 2002). Lưu Thái Dzo là nhà thơ đã thành danh từ lâu. Dù định cư muộn, ông đã đóng góp tích cực vào hoạt động văn học Việt Nam ở hải ngoại, và năm 2000, ông đã cho in thi tập đầu tiên ở xứ người. Bàn về thơ Lưu Thái Dzo, Du Tử Lê viết:”. ..Tôi hiểu tâm hồn Lưu Thái Dzo đã là cả một đài tưởng niệm. Kỷ niệm đã trở thành những ngọn nến vĩnh cửu, quá khứ đã trở thành ngọn đèn trăm năm thắp trong ngôi đền tâm thức Lưu Thái Dzo. Những ngọn nến vĩnh cửu kia đã sáng lên cùng khắp cõi thơ Lưu Thái Dzo...Những giọt lệ của một tình yêu cúi thấp, chia lìa, sẽ trở thành bất tử trong thơ Lưu Thái Dzo. Như Lưu Thái Dzo...” Thơ Lưu Thái Dzo ngày càng mói, cả về ý, bố cục, hình thức đặt câu, có nhiều hình ảnh sống động… nhưng vẫn lôi cuốn qua những vần lục bát, thất ngôn… chứng tỏ sức sáng tác của người-thơ còn rất phong phú, đó là niềm vui cho những kẻ làm thơ chân chính, những người thật sự yêu thơ, trân trọng thơ… Về bút hiệu LTD, trong một buổi họp thân hữu, ông cho biết ý ông muốn ví thân phận mình như một người Do Thái lưu vong…. L Ý T H Á I V Ư Ợ N G Sinh năm 1926 tại Hà Nội. Bút hiệu: Mai Thạch, Mai Sơn. Trước 1975: Cựu sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, khóa 3 - Sàigòn; công chức cao cấp Bộ Nội Vụ...Sau 1975: học tập cải tạo. Định cư ở Nam California (Mỹ) từ 1992. - Giải Nhất Thi Thơ Xuân Đài Phát Thanh Sàigòn (1960); - Giải Danh dự Thi Thơ Kỳ I, do Thi Đàn Lạc Việt (Bắc California) tổ chức năm 1994/95. Tác phẩm: chưa có phổ biến chính thức. Nhà thơ Lý Thái Vượng với chúng tôi có tình đồng môn, nhưng chỉ thực sự biết nhau khi ông được Ban Tuyển Trạch đề cử lĩnh Giải thưởng Danh dự cuộc Thi Thơ của Thi Đàn Lạc Việt I cách đây hơn 12 năm. Từ ngày đó, chúng tôi ít liên lạc với nhau, mãi gần đây, khi có dịp xuống LA họp bạn, mới được tin ông; gia cảnh đang gặp bối rối nên không đến dự họp được; tuy nhiên ông vẫn không quên gửi món quà nhỏ để đánh dấu tình tri ngộ giữa các bạn văn đồng hội, đồng thuyền. Thơ ông đã đăng trên các tạp chí văn học, chuyên san… tuy không nhiều nhưng đủ chứng tỏ một bút pháp già dặn, tài hoa… hướng về các giá trị đạo lý truyền thống, nhân bản…Xin xem lại những bài thơ dự thi trước đây (1994) của ông/và các bạn, trong tuyển tập Bốn Biển Thơ Chung Nối Nhịp Cầu do Thi Đàn Lạc Việt ấn hành năm 1996, để thưởng thức. thi tài của các nhà thơ Việt ở hải ngoại… MẠC HOÀI HƯƠNG Sinh: Năm 1931 tại Ninh Bình, Bắc Việt Nam. Trước 1975: Nhập ngũ học lớp Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức (1954). Sĩ quan Chiến tranh Tâm Lý (1957). Hoạt động :- Thư ký Tòa soạn Nguyệt san Vì Dân-Biết làm thơ từ lúc 14 tuổi - Gia đình 3 đời làm Cách mạng nên thơ chứa đựng đầy đủ tình yêu gia đình, dân tộc, và tình yêu Tổ quốc. -Làm nhiều thơ đủ thể loại :Ðường luật, Lục bát, song thất lục bát,Thơ mới, 4 chữ, 5 chữ. Ca trù.-Dịch thơ Ðường và viết Kịch thơ.-Tác phẩm : chưa in phổ biến. …Chúng tôi và bạn Mạc Hoài Hương gặp nhau đã 7,8 năm nay nhưng không hề nghĩ ông là một nhà thơ cho đến thời gian gần đây. Ông là người khiêm nhượng và kín đáo, nên dù đã vướng nghiệp thi văn từ tuổi 14, không mấy người biết điều đó. Bên cạnh những thể thông thường, ông còn sử dụng thể loại 4 chữ, ca trù…chứng tỏ một bản sắc đa dạng. Vốn xuất thân trong gia đình 3 đời hoạt động chính trị, thơ ông có nhiều sắc thái đặc biệt, tràn trề tình yêu gia đình, dân tộc và tổ quốc, qua những vần nhẹ nhàng, tình tứ, cô đọng, và nghiêm chỉnh.. mà vẫn ẩn mặc một tư tưởng yêu nước thiết tha.Ông còn thích xướng họa vói một số cao thủ như Hà Thượng Nhân, Huệ Thu, Trình Xuyên… và thích thú dịch thơ Ðường… thi giỏi Việt Nam hải ngoạihẳn sẽ dành cho ông một vị trí tương xứng trên đàn thơ. MẶC LAN ĐÌNH Họ tên: Trần Phúc Anh. Bút hiệu khác: Nguyên Đình. Sinh: 1944 tại Đại Lộc Tỉnh Quảng Nam. Theo học trường trung học Trần Quí Cáp Hội An. Sở thich Thơ - Văn - Nhạc và Thể thao. Hội viên : Thi Đàn Lạc Việt - Trung tâm Văn Bút Việt hải ngoại Tây Bắc Mỹ…từ 1994. Thơ góp chung trong tuyển tập Một Phía Trời Thơ 2.3.4.5 và Xuân Thu thi văn tập (1998) của Thi Đàn Lạc Việt. Có bài đăng trên các nhật báo như Việt Nam NB San Jose …Tham gia Ban Cố Vấn Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt San Jose. Thơ in: 2 tác phẩm: - Mây Trắng Còn Bay -Đường Tình Soi Bóng…Thơ ông trong sáng, giản dị…đọc dễ cảm, cũng như tính tình… MẠC PHƯƠNG ĐÌNH Họ tên : Lê Tuấn Ngô. Quê quán : Cẩm An - Tam Kỳ Quảng Nam. Học trường trung học Trần Cao Vân Tam Kỳ Quảng Nam và Quốc Học Huế. Viết văn xuôi với bút hiệu Cầm Ân Sơn. Tác phẩm: 4. Năm 2006, hợp tác với nhóm Hương Thời Gian, ra một tuyển tập thơ chung thứ 2, khá thành công. Trong nhóm này, tác giả Mạc Phương Đình được thi giới đánh giá cao vì thành tich đặc biệt: đã ấn hành liên tiếp 4 tác phâm trong một thời gian ngăn: Lời Ru Của Mẹ (2001); Những Dòng Kỷ Niệm (2002); Những Nhánh Sông Quê Hương (2003); Ru Người, Ru Đời (2005) …Thơ ông nhuần nhuyễn, đẹp lời và ý…dễ lôi cuốn ngươi đọc …chứng tỏ một bản lĩnh vững vàng, điêu luyện…Tính tình mau mắn, dễ thương, ưa giúp đỡ bạn bè…và cơ sở một cách vô vị lợi…Sau đây là mấy vần chúc mừng nhà thơ “thoát tai nạn “ đụng xe “thập tử nhất sinh!” CÓ TRỜI PHÙ HỘ Thân Tặng NT MPĐ ...Tháng trước, nghe ông bị đụng xe, đầu xe bể, phúc, chẳng hề chi! Thật mừng, chắc có Trời phù hộ, Rõ lạ, hẳn là Chúa chở che! Làm thiện, gieo nhân ra quả tốt, Giúp người, *thêm bạn, dám ai chê? Cổ lai, thất thập hơn...rồi đấy, Thư thả rong chơi, lại cặp kè!! * MPĐ thường năng nổ giúp bạn và hoạt động cộng đồng... #82/16 DHA M I N H V I Ê N `Họ Tên: Nguyễn Minh Viên. Sanh năm: 1940 tại Bắc Ninh (Bắc Việt Nam). Di cư: vào Sàigòn năm 1954.Trước 1975: cựu giáo chức Trung Học và cựu quân nhân QL Việt Nam Cộng Hòa. -Tị nạn tại Mỹ năm 1975, miền Bắc California. Hoạt động: Hội viên Văn Bút Việt Nam từ 1965 -Hội viên Hội Thi Sĩ Quốc Tế (từ 1994) -The International Poetry Hall of Fame (1997). Minh Viên bước chân vào làng Thơ rất sớm, năm 1965 ông đã trình làng tác phẩm Trăng, đang thời mà số người làm thơ còn thưa thớt, như sao Hôm sao Mai, dù là so với thời kỳ tiền chiến (1945) đã tăng bội mấy lần. Ông có vẻ trân trọng tác phẩm đầu tay này , vì có lời Tựa của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, một trong những nhà thơ tiền phong của phong trào Thơ Mới Việt Nam, vào đầu thập niên 1940. Chúng tôi gặp lại Minh Viên đầu thập niên 90, khi ông tái xuất giang hồ, với mấy tác phẩm mới in ở xứ người: Đêm Việt Nam, Mưa Xanh, và Vết Thương Sàigòn… Từ ngày ấy, chúng tôi thường gặp nhau trong những buổi sinh họat thuần túy-văn-nghệ ở trong vùng. Vào giữa năm 2000, ông lại cho ra mắt thi phẩm “The River of Poetry” và CD Thơ phổ nhạc “Em hóa thành Trăng”, với sự trợ lực hữu hiệu của người hiền nội đảm đang trong vai trò MC. Dáng điệu thư sinh, vóc người nhỏ nhắn, với cặp kính trắng nho nhã, Minh Viên dễ chinh phục cảm tình của giới văn nghệ sĩ qua những cử chỉ và lời nói nhỏ nhẻ, khiêm nhường… Bàn về thơ Minh Viên, nếu đọc lời giới thiệu của thisĩ Vũ Hoàng Chương, chúng ta sẽ hiểu thơ ông được đánh giá như thế nào. Riêng chúng tôi, được đọc những thi phẩm mới của nhà thơ, nhận thấy: “Lời thơ ông giản dị, nhưng vẫn hoa mỹ, niêm vận tề chỉnh, nhạc điệu nhẹ nhàng, Minh Viên đã thành công trong dàn trải tâm tình và cảm xúc qua mọi thể thơ cũ, mới: ngũ ngôn, lục bát, tự do …trong những đề tài tình cảm, xã hội và quê hương… Ngoài ra, ông còn có biệt tài làm và chuyển dịch thơ qua Anh Ngữ để giúp phổ biến văn chương Quê Mẹ ở nước người, tiếc rằng ông chưa có hoàn cảnh để thực hiện chuyển ngữ một số lớn thơ Việt khác trên một qui mô rộng rãi….Minh Viên đã nhiều lần được trao Giải Thưởng Thơ Quốc Tế về Thơ và là một (trong số ít) người Việt có chân trong Hội Thi Ca Quốc Tế ở Mỹ… NGỌC AN Ho tên: Nguyễn Ngọc An. Bút hiệu khác: Uyên Thi - Sinh tại Vũng Tàu – Nam Việt Nam. Định cư ở San Jose- Bắc California từ đầu thập niên 1990. Ngọc An tham gia, cộng tác với Thi Đàn Lạc Việt từ 1995, vào thời gian cơ sở mở rộng, thuộc thành phần trẻ tuổi nhất, cùng Khương Ha, Khánh Hà….Đảm nhiệm công tác Thư Ký một thòi gian sau đó…Đã có một số trươc tác chứng tỏ sự cố gắng và khả năng đa dạng sẵn có. Thời gian tiếp, cô chủ trương nhóm Hoa Vàng (2003) và Nam Phong (2005) , cùng các bạn Duy Văn, Trần Việt Hải, Hồng Vũ Lan Nhi…thực hiện tuyển tập Nam Phong…Phần riêng, cô đã in : 4 tập thơ, văn, 2 CD Nhạc, 2 băng cassette ngâm thơ…Thơ , truyện đăng trên các báo chi Việt ở Mỹ, Canada, Pháp, Úc… và mạng toán cầu (Đặc Trưng, Suối Nguồn, Trinh Nữ…đươc thi văn giới đánh giá đúng mức và độc giả hâm mộ… N G Ô Đ Ứ C D I Ễ M Sinh ngày 03/12/1942, tại Hà Tĩnh, Việt Nam, cũng là nguyên quán. Di cư vào Nam, theo học tiểu, trung học, rồi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm -Ban Triết, 1963, qua năm 1964 hoàn tất Cử Nhân Giáo Khoa Triết ở Đại Học Dalạt. Trước 1975, giáo sư các trường Trung học ở Nha Trang… Định cư ở Mỹ cuối năm 1976. Cộng tác với các báo và tạp chí trong và ngoài: Người Việt, Quan Điểm,Thời Báo, Duyên…Tác phẩm thơ in: Đền Em Nụ Hồng; Tâm Sự Lưu Vong; Đò Trăng; Hoa Cỏ May... Bàn về thơ Ngô Đức Diễm, nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận xét:” …Đền Em Nụ Hồng…hết sức lành! Như tác giả tập thơ này vậy! Nhà thơ xuất thân nhà giáo ấy có nụ cười thật hiền, có giọng nói nhỏ nhẹ, và đôi mắt dường như lúc nào cũng biết cười lạc quan. Dấu vết của cuộc đời dậy học in khá đậm lên từng bài thơ... Bạn đọc sẽ tìm được nhiều nụ hồng như vậy trong tập thơ của Ngô Đức Diễm… ” Giáo sư Ngô với chúng tôi có những kỷ niệm đẹp, khó quên. Lần đầu chúng tôi ra mắt sach tại Thung Lũng Hoa Vàng cách đây hơn 15 năm, chính nhà giáo đã vui lòng giới thiệu thi tập Huyền Ca Diễm Ảnh 1, 2 với một cử tọa thân thương, gồm có nhiều nhà báo, nhà văn, thơ tên tuổi ở địa phương, như Hoàng Anh Tuấn, Đào Văn Bình, Phạm Hải Hồ, Nguyễn Thiếu Nhẫn...Rồi sau đó nhà thơ Ngô Đức Diễm lại tiếp tục hỗ trợ cho cơ sở Xuân Thu và Thi Đàn Lạc Việt tổ chức những buổi thuyết trình, hội thảo về văn học..., đặc biệt là về Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Thiền học... Thời gian qua mau, nhưng họ Ngô đã để lại cho người - đọc những tác phẩm có giá trị lâu dài (như là Đò Trăng, Hoa Cỏ May …), thiển nghĩ đó cũng là một phần thưởng cho nhà giáo đa tài và có đức. NGUYÊN PHƯƠNG Họ tên: Nguyễn Văn Giáo. Sinh năm 1945 tại Huế. Giáo chức trước năm 1975.Chủ trương Nhóm Thơ Mây Chiều ở Bảo Quốc, Huế- 1963-1966. Giải Thơ Trường Bán Công Huế- 1963 . Thơ đăng trên các báo Văn Nghệ Tiền Phong, Thời Nay, Hòa Bình, Sống, từ 1966- 1975… Định cư ở San Jose Mỹ đầu thập niên 1990. Góp thơ trên các báo : Việt Nam, Thời Báo, Ngày Mới, Đất Đứng…Tham gia Thi Đàn Lạc Việt từ 1995. Trúng Giải Đồng Hạng Thi Thơ LIên Xứ Kỳ I do Thi Đàn Lạc Việt tổ chức năm 1994 (Năm này không đặt Giải Nhất!) Sau đó, hoạt động trong Cơ Sở Cội Nguồn San Jose… Đã có 1 thi phẩm in riêng. Thơ Nguyên Phương không nhiều, nhưng vững vàng, rung động nhẹ nhàng, tình cảm kín đáo, đôn hậu, - phần lớn dành co người phấu ngẫu - đáng ca ngợi…Xin trích đoạn bài Vọng Tưởng, đăng trong Một Phía Trời Thơ I- 1995: Nhớ về quê cũ buồn tênh Ở đây quanh quẩn, ngông nghênh nỗi đời ! Phải chăng đã nửa đời người Rong chơi xứ lạ, ngậm ngùi cố hương ! Xế chiều, má hõm, tóc sương Trầm mình trong chốn bụi hường (hồng) đắng cay ! ……… N G U Y Ễ N Đ Ô N G G I A N G Họ tên: Nguyễn Văn Ngọc. Sinh năm 1943 tại An Hải- Đà NẵngViệt Nam. Khóa 19 Trường Võ Bị Đà Lạt. Giáo sư Trung học các trường Trung Học Đà Nẵng, Quốc Gia Nghĩa Tử; Trần Quí Cáp - Hội An… Thơ đã đăng trên các tạp chí văn học miền Nam trước 1975. Sau 1975: Tù cải tạo ở Tiên Lãnh, Quảng Nam. Ra tù: sinh sống bằng nghề kéo xe bò, đạp xe thồ. Vượt thoát đến Hong Kong năm 1991 và được PEN International can thiệp định cư ở Mỹ, năm 1996, theo diện (nhà báo) tị nạn chính trị. Thơ in: Thơ Của Người Giang Hồ (1969-Việt Nam); Cho Tương Lai Bắt Gặp (1971-viếtchung-Việt Nam). Nguyễn Đông Giang là nhà thơ đã thành danh từ trước 1975. Hoàn cảnh khó khăn riêng khiến ông đi định cư trể ở nước ngoài, nhưng với tinh thần chịu đựng và kiên nhẫn phấn đấu nơi xứ người, ông đã hoàn tất mau chóng thêm tập thơ mới: Vô Lượng Tình Sầu (2005). Thật đáng kính phục! NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG Họ tên: Như bút hiệu, tự Hành Thiện. Sinh ngày 9/9/1933 tại làng Đại Phong, Lệ Thủy, Quảng Bình, Trung Việt. Học trường Quốc Học Huế và sinh viên Văn Khoa, Saigon. Trước 1975, hoạt động trong Phong Trào Thanh Niên Cách Mạng Quốc Gia và là một viên chức suốt 20 năm. Cộng tác với một số báo chí … dưới bút hiệu Hoài Linh, và Đại Phong. Sau 1975: Định cư ở San Jose và giúp việc Sở Xã Hội Hạt Santa Clara. Viết bài cho báo chí địa phương như Trắng Đen, Văn Nghệ Tiền Phong, Việt Nam Nhật Báo…từ thập niên 1980.Trong nhóm văn nghệ sĩ Quê Người, tranh đấu chống Cộng…thành viên Phong Trào Chống Cộng ở Vùng Bay ngay từ 1975…Tác phẩm đã in: Vàng Son, Thơ- Tầm Gửi - Truyện dài; Đuổi Bướm - Thơ , My Version of Kieu…Tốt nghiệp trường Tù (Truyện), Khung Trời Hiu Quạnh - Thơ … Nhà văn/thơ Ngô Đình Chương hoạt động âm thầm, ít xuất hiện trước công chúng, thường giao du với quí ông Hà Thượng Nhân, Xuân Vũ, Hải Bằng, Song Thi, Hiếu Đệ … Thơ văn niêm luật vững vàng, chững chạc …theo khuynh hương luân lý, xã hội.…Sẵn lòng đóng góp ủng hộ trong các sinh hoạt văn hóa ở địa phương …Xin quí bạntạm thưởng thức một bài thơ tiêu biểu của thi sĩ họ Ngô dưới đây : KHÓC LIỆT SĨ Viết cho một người bạn Tiếng trống bi thương giục mấy hòi Giữ đường liệt sĩ đã than oi Thân trai máu đổ, hồn rung đất, Tuổi trẻ đầu rơi, khí chuyển trời Nuối tiếc ngập tràn, đời mãi nhớ, Hận thù ăm ắp, bạn nào nguôi Ra đi, chẳng hổ cùng song núi, Chính khí hụng anh để rạng ngời… Ngô Đình Chương (1985) N G Ô M I N H H Ằ NG Họ tên: Ngô Minh Hằng.Bút hiệu: Song Châu Diễm Ngọc Nhân, Hưng Yên, Trương Hà Nam. Sanh quán: Tiên Quán, Hưng Yên, Bắc Việt Nam. Di cư: Vào Nam năm 1954.Nghề nghiệp: Giáo chức các trường Sàigòn - Gia Định (trước và sau 1975). Định cư: Bang New Jersey với 5 con (sau khi vượt biên 1980) Hoạt động: Có thơ đăng trên các báo Việt Nam, trước và sau 1975 (hải ngoại); và sau này, trên internet.Tác phẩm: Góp in trong Vườn Thơ Tâm Tình; Cụm Hoa Tình Yêu 2, 1996; Một Phía Trời Thờ 2 -Thi Đàn Lạc Việt; Một Thời Lưu Lạc (Cội Nguồn)… - In chung với các tác giả Vũ Hối, Nguyễn Vạn Thắng, Trần Bửu Hạnh trong tập Tình Yêu và Quê Hương, Colorado. -In riêng (Thơ): Tiếng Lòng -1996 ; Dư Âm; Gọi Đàn (1999); một Tập truyện ngắn… Những năm trước đây, chúng tôi thường được đọc thơ Ngô Minh Hằng trên nhiều báo Việt ở hải ngoại: Dân Chủ Mới, Rạng Đông, Dân Việt, Hồn Việt… qua bút hiệu Song Châu Diễm Ngọc Nhân. Vào những năm 1997 và 1998, chúng tôi lại có dịp diện kiến trong dịp bà ra mắt mấy thi phẩm mới, như: Tiếng Lòng 1, 2… tại vùng Nam Vịnh, Cali. Rồi qua mấy năm sau, được đọc liên tiếp thơ bà trên Internet, chúng tôi thấy Ngô Minh Hằng đã thay đổi khá nhiều trong chiều hướng sáng tác: đấu tranh chống Công, đòi Tự Do và Dân chủ cho Đất Nước, thay vì nặng về tình cảm riêng tư. Đó là điểm đáng mừng! Thơ Ngô Minh Hằng nói chung rất tề chỉnh, lưu loát, giản dị và dễ cảm xúc, trừ vài bài thơ Luật, như “Tết” và “ Lại Tết”…có lẽ bà muốn để cảm hứng được diễn tả tự do hơn. Vắn tắt, Ngô Minh Hằng là (một trong số những) nhà thơ nữ sáng tác mạnh, đều, được biết đến nhiều trong sinh hoạt thi văn Việt Nam ở ngoài nước bên cạnh Vi Khuê, Trần Mộng Tú, Huệ Thu…làm vẻ vang cho nữ giói . N G U Y Ễ N Á I L Ữ Sinh ngày 8 tháng 5 năm 1933 tại Hà Nội. Cựu Thiếu tá Ngành Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH. Cử Nhân Khoa học Xã hội (Hoa Kỳ). Hội viên Văn Bút VNCH. Hội viên International Society of Poets. Đã Xuất Bản: SÓNG GIÓ, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Phượng Hoàng Hà Nội,1952.- ĐƯỜNG TỰ DO, tập tùy bút, nhà xuất bản Tiến Bộ, Huế, 1956. NGÕ HẸP, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Tin Văn, Saigon, 1958. ĐI TRÊN NỖI BUỒN, nhà xuất bản Trang, Saigon, 1965, nhà sách Khai Trí, Saigon tái bản 1969. GIÓ NỔI CÁT BAY, tiểu thuyết, nhà xuất bản Trang, Saigon, 1966 XUÔI GIÒNG, tiểu thuyết, nhà xuất bản Đời Mới, Saigon, 1971. LỬA HƯƠNG, tập truyện ngắn và thơ, nhà xuất bản Đông Phong, Oakland, 1999. TUYẾT HOA, tập thơ, nhà xuất bản Đông Phong, Oakland, 2002. MỘT THỜI VIẾT VĂN, tuyển tập văn, thơ, ký sự, nghị luận, nhà xuất bản Đông Phong, Oakland, 2004. Tác giả đã cộng tác với các báo ở VN trước năm 1975. Định cư ở Hoa kỳ năm 1990, tiếp tục viết, đăng trên các báo Việt ngữ và đóng góp thơ văn Việt, Mỹ cho các tuyển tập của Thi Đàn Lạc Việt, The International Library of Poetry, Noble House Publishers, nhà xuất bản Văn Hóa Pháp -Việt , Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại/Trung Tâm Tây Bắc Hoa Kỳ…. Nguyễn Ái Lữ là một cây bút lâu năm trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) trước đây, cũng như Hoàng Ngọc Liên, Hà Thượng Nhân, Hà Huyền Chi, Viên Linh… và đã có nhiều tác phẩm (đủ loại) xuất bản ở trong nước. Duyên may chúng tôi được gặp lại ông trong một buổi sinh hoạt có tính cách gia đình, cách đây hơn 10 năm ở vùng South Bay (Bắc California). Vài năm sau, Nguyễn quân cho in tập Lửa Hương (Truyện, Thơ) ở Mỹ, và gửi cho chúng tôi, qua địa chỉ một thi hữu,- rất tiếc cả hơn năm sau mới nhận được sách này, bởi vì người bạn kia đã bỏ quên nó trong thùng xe. Đọc tác phẩm Lửa Hương, chúng tôi nhận thấy ngòi bút của Nguyễn quân vẫn giữ được phong độ cũ, mặc dầu đã trải qua nhiều biến thiên, và tuổi đời chồng chất. Trong những bài thơ ông đóng góp trong tuyển tập Thơ Việt Hải Ngoại kỳ trước, chúng tôi thích bài “Xuân vẫn Việt Nam”, theo thể tứ tuyệt, lời thơ chững chạc, vững vàng, điểm thêm nét hào hùng, có thể coi như là tiêu biểu cho cá tính của ông. N G U Y Ễ N B Á T R Ạ C Sinh năm 1942 tại Huế. Quê quán: làng Mọc, Hà Đông, Bắc Việt Nam. Học tiểu học ở Hà Nội, trung học ở Đà Nẵng. Cựu sinh viên khóa 10, và Cao Học I, Học viện Quốc Gia Hành Chánh (Sàigòn). Đại học USC Los Angeles -1974/75. Cộng tác viên xã hội Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn LHQ và Hồng Thập Tự Mã Lai (1987/88). Xuất bản báo Thời Luận (báo đầu tiên của người Việt ở Bắc Cali) -1980; Cộng tác với các báo và tập san Việt ngữ: Người Việt, Văn Học, Thế Kỷ 21, Thời Báo, Dân Tộc… Sách in: Ngọn Cỏ Bồng -1985; Chuyện Một Người Di Cư Nhức Đầu Vừa Phải -1993 ; Nước Mắt Trước Cơn Mưa - 1995 (dịch từ Anh ngữ); Ngọn Cỏ Bồng Toàn tập - 1995. Nguyễn Bá Trạc với chúng tôi là đồng môn nhưng chỉ gặp nhau sau gần 20 năm xa xứ. Những năm đầu lưu vong, có nghe ông xung phong ra báo ở địa phương (dù chỉ sống được một thời gian ngắn) nhưng cũng không quan tâm mấy, vì lúc đó chúng tôi đó còn mê mải, chạy vạy kiếm sống, nuôi vợ con.Sau khi ông đi du lịch ở Âu Châu về, chúng tôi mới được gặp và cộng tác với nhau một thời gian. Tính tình ông phóng túng, lè phè… lúc nào cũng có vẻ quên thực tế, đi làm không giữ được job nào lâu, nhưng dù khó khăn thế nào ông cũng không bỏ được thói ăn hút (thuốc lá), có lẽ cũng không kém cụ Tú Xương trước kia là mấy! Đối lại, ông có một số bạn bè hết lòng giúp đỡ nên... gần cuối đời, khi thời vận đến, đã kiếm được một việc làm tốt và một cô vợ mới, thật trẻ, có tài, chịu khó… để an hưởng tuổi già. Về văn nghiệp, dù sáng tác không đều, ông vẫn được các giới đánh giá cao vì những nét đặc biệt trong phong cách của ông, như nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nhận định:”Tính chất bề bộn, phóng khoáng bàng bạc trong tác phẩm...khiến NBT làm thơ không giống ai, viết văn không giống ai. Ông đứng riêng một chỗ, không xếp hàng, không nhập cuộc, khơi khơi như dạo chơi giữa cuộc đời mà thật sự gắn bó với cuộc đời hơn ai hết.” NGUYỄN HỒNG DŨNG Họ tên: Nguyễn Hồng Dũng. Sinh tại Quảng Ngãi Việt Nam. Định cư ở Mỹ theo diện tị nạn chính tri. Tốt nghiệp Kỹ sư Điện tử, và cùng là giáo sư Associate Đại học San Jose State và Tiến sĩ Khoa Quản Trị Kinh Doanh Đại học Southern California University,. Đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trong các doanh nghiệp tư, công sở, đoàn thể, cơ sở thương mại…Nhà hang Cơm Chay Di Lặc San Jose…Báo chí, tập san, Hệ thống Direct Tivi, Truyền Hình Viên Thao … Trước tác và phát hành trên 15 tác phẩm về Thơ, nghiên cứu Phật học (Kinh văn), bình luận… Hiện là Phó Chủ Tich thứ 2 của Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt San Jose…Thương đảm nhiệm vai trò Thuyết trình và MC…trong các buổi sinh hoạt được đa số tán thưởng…ủng hộ … NGUYỄN NĂNG NHU. Chúng tôi được gặp bạn Nguyễn Năng Nhu hơn 10 năm nay, qua thi sĩ Hà Thượng Nhân, nhưng đã được biết anh là tác giả của cuốn sách Giải Thoát Tức Thì”, rất được giới nghiên cứu Phật Học ngưỡng mộ. Về sau này, khi được trò chuyện với nhau, mới biết anh là người hiểu sâu rộng về Ðạo Phật, và anh cũng làm thơ khi có nhã hứng. Chúng tôi có mời anh, nếu rảnh, tham gia hướng dẫn mấy buổi nói chuyện về Phật Học theo chương trình của Hội Văn Học Nghệ Thuật, nhưng chưa có dịp thuận tiện. Nhân thực hiện Tuyển Tập Giới Thiệu Thơ Việt Ngoài Nước, chúng tôi có mời anh tham dự, và sau một thời gian suy nghĩ, anh đã nhận lời.Trong thư, anh viết:”...Tôi xin gửi đến anh 6 bài Ðạo thi, để như anh nói, đa dạng hóa tuyển tập thơ Việt hải ngoại. Thưa anh, Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn…nên những bài Ðạo thi này chưa chắc đã được độc giả đón nhận với nhiều thiện cảm. Nhưng là những người muốn đem hạt giống Phật đi gieo thì chúng ta cứ gieo một cách rộng rãi tối đa .Trong một ngàn người đọc, một vạn người đọc, có một vài người tiếp thu được, dù ít, dù nhiều, nội dung của mấy bài Ðạo thi này, hoặc bằng căn cơ, hoặc bằng lòng yêu mến văn thơthì cũng đáng kể như là một thành công rồi, anh ạ !”Thật là chí lý và đáng làm ta suy nghĩ!! NGUYÊN THANH GIẢN Sinh năm 1940 tại Thái Bình.Di cư vào Saigon năm 1954. Tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ năm 1965. Định cư ở Mỹ từ 1983. Viết văn, làm thơ, soạn nhạc…Làm việc ở Trung tâm Khoa học Chiron, California. Cuối đòi, nghiên cứu Đạo và khởi truyền Pháp trước khi mệnh chung một thời gian (2015?), thọ 75 tuổi. Đã in: Kể Bên Bếp Lửa – Truyện dài, Kỷ Niệm Trên Đồi – Truyện ngắn… Đang soạn: Chứng nghiệm Tâm Linh (Triết học). Ngoài ra, còn có nhiều bài nghiên cứu về triết hoc, khoa học, thiền học …đăng trên các báo chí, tập san… Viêt ngữ ở hải ngoại. Thơ văn ông rất đắc thể, và mang một dấu ấn riêng: trẻ trung, sâu sắc, mượt mà… Găp nhau vào khoảng năm 1993 trong một cuộc hội thảo về văn học trong vùng thung lũng Hoa Vàng , chúng tôi mau trở thành thân thiết. Vóc người tầm thươc, dáng vẻ một gentleman, với nụ cười luôn nở trên môi…bác sĩ Nguyễn Thanh Giản dễ dàng chiếm cảm tình của mọi người…Ngoài ra, ông luôn luôn tôn trọng ý kiến của bạn bè và chân thành giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh; chúng tôi đã học được rất nhiều …ờ ong…Rất tiếc, khi ông mất, chúng tôi không đươc gặp ông lần cuối để tiễn biệt…vì ở xa, biết tin trễ, âu cũng là do duyên nghiệp . Quí bạn có thể thưởng thức thơ ván của bác sĩ Nguyễn Thanh Giản đăng trong tuyển tập Một Phía Trơi Thơ I. do Thi Đàn Lạc Việt ấn hành năm 1995. Dưới đây là bài thơ ngẫu hứng chúng tôi làm để kính viếng một kẻ sĩ tài hoa… THUẬN, NGHỊCH Viếng NT, Bác sĩ Nguyễn Thanh Giản “ Bốn chín” ngày, định đến thăm nhau, Nhớ lộn đường, xe stop ở đâu? Đêm trước, bụng đau, nên ngủ ít, Sáng này, dậy trễ, chạy cho mau! Có duyên, chưa biết duyên xuôi, nghịch, Soi nghiệp, nào hay nghiệp trước, sau! Tạ lỗi, đọc câu kinh sám hối, Gặp nhau lần nữa, chắc còn lâu!! *Lễ cầu siêu 49 ngày, Bs Nguyễn Thanh Giản mất 3/2015 DHA 2015 NGUYỄN THANH XUÂN Thanh Xuân họ Nguyễn, - cũng là bút hiệu, - sinh trưởng ở Dalat, Việt Nam trong một gia đình đông con (lớn, nhỏ 12 anh chị em). Thân sinh là một viên chức chỉ huy ngành thủy lâm, nông nghiệp. Lớn lên, sắp học xong trung học thì xây ra biến cố 4/1975. Từ đấy bắt đầu một cuộc sống gian nan, đầy thử thách…dưới chế độ phi nhân, độc đoán…cuối cùng thì gia đình cô phải liều mạng vượt biển ra đi vào cuối năm 1977. Nhờ may mắn và có đủ điều kiện, gia đình cô được chấp thuận cho định cư ở Mountain View, California vảo đầu năm 1978. Từ ngày ấy, cô gắng làm lại cuộc đời như mọi đồng hương tị nạn, và cuối cùng thì công thành, danh toại…có một nếp sống trung lưu, như trước đây ở quê nhà… Sau khi học hết chương trình sơ cấp Foot Hill, Thanh Xuân chuyển qua học về ngành Real Estate và tốt nghiệp đại học San Jose State , vài năm sau thì lập gia đình. Năm 2009, cô về thăm lại quê hương…và sau khi trở lại Mỹ, cô có hứng thú viết được 2 tác phẩm song ngữ Việt Anh là “ Con Đường Đi Đến Giàu Sang & Hạnh Phúc” và “Bí Ẩn Của Sự Thành Công”…hiện có bán qua Amazon …Xin quí bạn vào website www.thanhxuannguyen.com để tịm hiểu thêm về những trước tác khác của cô; hiện nay cô giữ vai trò Tổng thơ ký cơ sở Văn Thơ Lạc Việt San Jose (Thi Đàn Lạc Việt trước đây), giúp Hội giải quyết nhiều chuyện thường vụ và quan trọng của cơ sở, đã tỏ ra có nhiều khả năng và sáng kiến… đượcnhiều người ngưỡng mộ… N G U Y Ễ N T H Ị N G Ọ C D U N G Họ tên: Nguyễn Thị Ngọc Dung (cũng là bút hiệu). Sinh tại Hà Nội. Di cư vào Nam: 1954. Theo học trường Trung học Trưng Vương. Định cư ở Virginia (Mỹ) từ 1972. Chủ bút tam cá nguyệt san Cỏ Thơm - Virginia. Đã in: Phượng Vẫn Nở Trên Trời Hà Nội - Truyện ký (1995); Sàigòn Nắng Nhớ Mưa Thương -Truyện ký- 1996; Điểm Trang Làm Dáng Cuộc Đời-Thơ- 1999; Một Thoáng Mây Bay - tập truyện - (2001); Hoài Cảm… Thơ xướng họa với nhiều tác giả (2003)… NV/NT Nguyễn Thị Ngọc Dung mới chính thức xuất hiện khoảng trên mười năm nay, nhưng đã được văn giới Việt Nam hải ngoại đón nhận với cảm tình nồng nhiệt. Giáo sư Nguyễn Đình Hòa đã giới thiệu bà trong tạp chí World Litterature Today (Đại học Oklahoma -Thu 1997); Bà cũng có tên trong Tuyển tập Nhà văn, Nhà thơ Hải ngoại, và Tự điển Thi Ca Anh Mỹ Việt (1998) của giáo sư Nguyễn Đình Tuyến… chưa kể những tác phẩm khác của các nhà văn Hồ Trường An, Lưu Nguyễn Đhạt, Đặng Trần Huân…. Riêng về thơ, bà đã viết từ gần 3 chục năm nay, với những vần lục bát và thất ngôn (ghi đề từ 1956, 57) thật tròn, dễ thương. Trong tập “ Điểm Trang Làm Dáng Cuộc Đời”, nhà thơ Hà Bỉnh Trung nhận định đại ý:” Về kỹ thuật, ND đã nắm vững qui tắc niêm luật (nhất là thơ Đường luật) và gieo những vần (lục bát) thật chỉnh”. Thơ tràn trề nhạc tính, dễ tạo cảm xúc cho người đọc, với những tư tưởng và tình cảm chân thành, lãng mạn. Với những bài Đường luật trong tập thơ này, 2 bài Một Thời và Rất Nhẹ Êm được coi là đạt nhất, theo ý Hà tiên sinh. Với số tác phẩm ra đều đặn, khá thành công trong một thời gian tương đối ngắn, cây viết Nguyễn Thị Ngọc Dung hẳn sẽ có một địa vị tương xứng trong giới cầm bút Việt Nam ở hải ngoại. N G U Y Ễ N V Ă N C Ư Ờ N G Sinh ngày 22/8/1942 tại làng Hiệp Mỹ, quận Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa (nay là thôn Mỹ Thanh, xã Cam Thịnh Đông, thị xã Cam Ranh). Quê nội: Làng Thái An - Quê ngoại: Làng Tri Thủy, cùng quận Thanh Hải, Tỉnh Ninh Thuận. Trước 1975: công chức . Hiện định cư ở: Bergen, Na Uy. Giải Văn chương Báo Tiền Phong, Quân Đội. - Đã cộng tác với: Vượt Sóng-Pháp Âm (NaUy), Quê Mẹ, Tin Văn (Pháp), Cành Én, Viên Giác (Đức)-Thế Kỷ, Tạp chí Thơ (Mỹ)-Làng Văn (Canada)…Văn - Dân Chủ Mới-Đường Sống-Tin Tức-Việt Điểu- Đất Đứng - Hương Việt-Lập Trường -Đặc San Hội Cao Niên (Canada)… Hội viên Hội Thơ Tài Tử Việt Nam (Mỹ); Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Âu Châu… - Học tập cải tạo sau 4/1975, xuất trại ngày 07/9/1988. Tác phẩm in: -Thương Quê, Nxb Viên Giác, Đức; -Dấu buồn thơ trổ bông, Nxb Làng Văn, Canada, 2000; -Màu sim trong đất hứa, Nxb Anh Em, Na Uy, 2000 -Sẽ in: Vầng Trăng Quê Hương (tạp văn)… Nhà thơ Nguyễn Văn Cường đến với chúng tôi vào dịp Thi Đàn Lạc Việt tổ chức cuộc Thi Thơ liên xứ, Kỳ I, vào cuối năm 1994, mà ông là người tham gia đầu tiên từ nước ngoài. Sau đó, ông tiếp tục hỗ trợ Thi Đàn trong công việc phổ biến thi ca Việt ở hải ngoại, bằng cách đóng góp thực hiện những băng cassette ngâm thơ, và thơ phổ nhạc.. .. Dù ở xa, và bận vật lộn với cuộc sống hàng ngày, ông vẫn giữ mối liên lạc đều đặn, và nhiệt tình ủng hộ hoạt động của Thi Đàn; chúng tôi thật tình cảm động có những người bạn vong niên như thi sĩ Nguyễn Văn Cường. Bàn về thơ ông, báo Làng Văn viết:”Thơ Nguyễn Văn Cường, dù ở chủ đề nào, quê hương, tranh đấu, tâm tình… cũng có nét riêng tư, đặc biệt, chứa đựng nhiều ẩn tình… Thơ NVC nhiều hình ảnh và nhạc điệu ...Trạng thái giằng co giữa tình cảm và lý trí...thường thấy thể hiện trong ngôn ngữ thơ ông... NVC, qua thơ, đặc biệt ở thể loại lục bát, tình ý thường mượn hình ảnh để thố lộ...Thơ ông đa dạng, nói về nhiều mặt của cuộc sống…” Theo thiển ý, bạn NVC đã có những nỗ lực làm mới ngôn ngữ trong thơ của ông, điểm này đã được nhắc tới trong lời Bạt của nhà Xuất Bản Anh Em, trong thi tập “Màu Sim Trong Đất Hứa”:” “..Màu Sim Trong Đất Hứa” hình thành một ngôn ngữ thi ca rõ nét, của riêng Nguyễn Văn Cường, từ cách nhìn sự vật tới việc diễn tả tình ý thơ… N H Ư H O A Họ tên: Lê Quang Sinh. Bút hiệu khác: Vũ Đăng Lư.Sinh: 21/5/1929 tại Quảng Điền, Triệu Phong, Quảng Trị. Cựu Trung Tá. Đơn vị cuối: Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sáng lập, Chủ Tịch Hội Thơ Tài Tử Việt Nam từ 1995. Góp mặt trong thi tập Cụm Hoa Tình Yêu 1-10; Tổ chức các Đại hội Thơ TTVN hải ngoại 1998; 2000; 2002, 2004… Tác phẩm in: Chuyện Ngày Xưa (Thơ - 2000); Bản Anh- Pháp -Việt đã được giải New Works Award do Sacramento Arts Commission tài trợ (2001) Như Hoa và chúng tôi chưa biết nhau cho đến ngày Thi Đàn Lạc Việt tổ chức ra mắt tuyển tập Một Phía Trời Thơ I ở San Jose vào tháng 3/1995.Từ ngày ấy, thỉnh thoảng anh em mới lại gặp nhau qua những buổi họp đặc biệt về Thơ giữa 2 thành phố (Sacramento và San Jose) vì đường lối diệu vợi, - hơn 2 giờ lái xe. Ba năm sau, gặp nhau ở thị xã Oakland - nhân một buổi trình diện tác phẩm của một văn hữu ở xa - chúng tôi hẹn với nhau sẽ cố gắng một thời gian nữa rồi rửa tay, gác kiếm… vì thật sự đã quá mệt mỏi trong công tác “cơm nhà, vác ngà voi”… Hội Thơ Tài Tử VN nay đã di chuyển qua một địa phương khác cùng người sáng lập, nhưng chưa ngưng công tác; năm nay có tin Hội lại đứng ra tổ chức một buổi họp mặt Thơ lớn như mấy lần trước, thật đáng mừng. Tuyển tập Cụm Hoa Tình Yêu chắc cũng sẽ ra một ấn bản đặc biệt năm 2006; như vậy nhà thơ Như Hoa (và cộng sự viên) chứng tỏ còn đủ tài sức và tinh thần hăng say, góp phần đắc lực yểm trợ hoạt động thơ văn Việt Nam ở nước ngoài. PHẠM ĐỨC ĐIỀU Sinh ngày :13/01/1934 tại Cam Đông - Thụy Anh Thái Bình. Di cư vào Nam năm 1954. Trước 4/1975 :Tốt nghiệp Trường Sĩ Quan Thủ Đưc Khóa 14. Cựu Thiếu Tá Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa – Tù cải tạo Cộng Sản: 14 năm. Định cư ở San Jose từ 03/12/1992 theo diện HO 15. Gia cảnh: Vợ và 6 con. Tham gia hoạt động Thi Đàn Lac Việt từ 1994. Đáng tiếc đã bất ngờ từ trần vào ngày 17/12/1994 ở San Jose. Chưa có tác phẩm in. Bạn Phạm Đức Điều. một cựu giáo chức.mới tham gia Thi Đàn Lạc Việt hoat động một thời gian ngắn nhung đã chứng tỏ có một tinh thần hi sinh, tận tụy cao độ ….bất vụ lợi. Đã sốt sắng tham gia phụ giúp ban Biên tập Tuyển tập Một Phía Trời Thơ I gồm 37 tác giả, dầy trên 500 trang lần đầu tiên ấn hành ở Vùng Nam Vịnh San Francisco … Quí bạn có thê tìm đọc trong tuyển tập Một Phía Trời Thơ I bài “Cô Gái Xóm Giồng”- một - trong những - bài thơ cuối cùng cỉa ông, làm ít ngày trước khi mãn phần (tháng 12/1994)… PHẠM HẢI HỒ Phạm huynh với chúng tôi chưa từng gặp nhau ở Sàigon trước năm 1975, Khi ông qua Mỹ định cư ở San Jose, vào cuối thập niên 1980, - 1988 - theo diện ODP thì cũng là thơi gian chúng tôi sửa soạn trở lại hoạt động trên đàn văn, sau hơn hai mươi năm vắng bóng. Lúc đó, 1991, Phạm huynh tạm ngồi giúp việc cho tờ Thời Báo của ông Vũ Bình Nghi - đường số 10, một bữa rảnh rỗi đi qua, NV xin vào trong trao cho ông dự thảo thi tập Huyền Ca, Diễm Ảnh dự tính sẽ xuất bản, nhờ ông đọc hộ và cho ý kiến, ông lăng lẽ cầm lấy, chẳng nói một lời (có lẽ vi không quen biết nhau từ trước !) Phạm huynh vốn là một cựu thẩm phan của Chính quyền Miền Nam, đã hoạt động thơ văn từ trước 1975, và năm 1973 đã được lĩnh giải Thơ vói tập 10 Năm Tâm Sự. Khi đến xứ người…ông buồn tình cũng lai rai viết và đăng thơ văn, phiếm luận…-như Sớ Táo Quân, Vui Buồn Vùng Vịnh - trên các báo và tạp chí Quê Hương, Tiền Phong…vói bút hiệu Vong Quốc Nhân cho quên ngày tháng, nhưng tránh không chỉ trích, bới móc cá nhân nên vẫn giữ được hòa khí vói mọi người. Cuối tháng 6/1991, NV tổ chức Ra Mắt thi tập Huyền Ca Diễm Ảnh ở quán Les Amis, San Jose được sự hỗ trợ tận tình của một số văn, thi, nhạc, nghệ sĩ bạn và thân quen (xx phần trên), trong đó có nhà thơ Phạm Hải Hồ đã lên ngâm tặng một bài thơ, với giong đặc biệt “thuốc lào”- theo lời người ngâm- làm tác già vô cùng cảm động- vì bị bất ngờ ! Về phần gia đình, các cháu theo học mấy ngành chuyên khoa (Y, Nha) đều thành tài cả, chắc Phạm huynh được hài lòng…Rất tiếc, thời gian ngắn sau đó, nhà thơ Pham Hải Hồ đã sơm ra đi vì bệnh…để lại nhiều thương tiếc cho bạn bè; nhất là NV đang ở xa, không được thông báo kịp thơi! PHẠM MẠNH ĐẠT Nguyên quán: Tỉnh Hải Dương Bắc Việt Nam . Nhạc sĩ. Chuyên về Hạ uy cầm. Học nhạc từ năm 12 tuổi bằng cây đàn banjo alto. Chuyển qua xử dung đàn hawaienne (hạ uy di) từ thập niên 1950/60… trở nên khá nổi tiếng. Viết nhiểu ca khuc đượm tình quê hương và đấu tranh… Đã in 16 album nhạc gờm CD- DVD – Video…Hiện là cố vấn choHội Văn Thơ Lạc Việt San Jose. Duyên lành giúp chúng tôi gặp nhau năm 1996, khi NV trở lại với bộ môn Nhạc bỏ quên từ lâu vì thiếu thì giờ. Dịp may cũng đến, khi NV diện kiến nhạc sĩ Hoàng Trọng, nổi tiếng về những ca khúc điệu Tango từ thời tiền chiến. NS PMĐ đã thông cảm, vui vẻ nhường lại cho NV tập “Cách Viết Một Ca Khúc” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, biên soạn rất công phu từ thập niên 1950, khổ lớn dầy mấy trăm trang, để làm tài liệu ôn tập lại…Quí bạn yêu thơ, nhạc có thê ghé thăm website riêng của nhạc sĩ PMĐ tại www. phammanhdat.com để tham khảo… PHẠM QUANG TRÌNH Sinh tại Thái Bình. Tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Saigon. Trước 1975: Giáo sư Trung Học. Tham gia Chương trình Xây Dựng Ấp Chiến Lược toàn quốc . Cựu sĩ quan Quân Lực VNCH. Phuc vụ trong ngành Tư Pháp và Lập Pháp. Sau 1975: Tham gia phong trào Phục Quốc (Nhà ThờVinh Sơn). Vân động thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất năm 1978 ở quốc nội. Bị Cộng Sản bắt giam ở Khám Chí Hòa (8/1978) và Hầm Tân (5/1980). Vươt ngục (1980) rồi vượt biên tháng 8/1982. Định cư ở San Jose, sáng lập và chủ tịch Trung tâm Văn Bút Việt Nam Băc Cali 1992 - 98. Năm 2003, đắc cử Chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải ngoại nhiệm kỳ 2003/05. Tác phẩm in: Trên Núi Thánh - 1987 - Nợ Máu 1989 - Cán Bộ Cách Mạng 1990 - Đấu Tranh Cách Mạng (1978/2002) - Việt Nam Mến Yêu 1996/99 - Văn Chương Dỏm - Văn Chương Bình Dân Phản Kháng- Bên Cầu Thị Vải.…………… ... Ông Phạm Quang Trình gặp chưng tôi vào cuối năm 1992, sau khi Thi Đàn Lạc Việt đã thành lâp. Tiếp đó, TTVB mời chúng tôi tham gia với nhiệm vụ Phó Chu tich thay thế nhà văn Trúc Lâm cho đến Hè năm 1996. Trong thời gian đó, hai bên hợp tác và hỗ trợ nhau trong việc tổ chức bàu lại Ban Chấp Hành VNVBHN Ky 4, Ra Mắt Sách của các hội viên, Nói Chuyện Về Thơ Đường. Luyện Ngâm Thơ…thu được nhiều kết quả tốt… Sau đó, vì quá bận việc của thi đàn, chúng tôi ít sinh hoạt với trung tâm văn bút…nên cũng không nắm vững tịnh hình chung của tổ chức này. Riêng về Phạm quân thì chúng tôi nhận thấy, qua những công tác đã làm… ông là một người cả quyêt, có khả năng và tinh thần phục vụ cao, khéo léo, biết tôn trọng bạn bè…nên hội được nhiều điều kiện thuận lợi để thành công… Nhà báo Vũ Quang Trân, còn trẻ, nhiều khả năng…là một phụ tá đắc lực của ông PQT, hai người đã hợp tác với nhau trong một thời gian khá dài… Về phần riêng Kỹ sư Vũ Quang Trân. ông sinh năm 1956 tại Dalat Viet Nam. Bút hiệu: Đặng Vũ - Hải Trình - Cán sự Điện - Ký Dỏm…Định cư ở San Jose Mỹ từ 1981. Làm việc trong ngành điện tử. Chủ trương tuần báo Thời Sự 1991- 93. Cộng tác vơi các báo chí ở Pháp, Mỹ, Canada…Tổng thư ký Trung tâm Văn Bút Bắc cali từ 1992 Tác phẳm: Nói Chuyện Với Đầu Máy (tạp ghi 1993 - Dịch truyện của Gustav Morin (Slovak) 2004) - Phụ trách tuyển tập Bút Hoa của Văn Bút Bắc Cali…Tuyển tạp Truyện ngắn - Dịch 2004 …. PHẠM VĂN HẢI. Họ tên : Phạm Văn Hải. Sinh trưởng: tại Hải Phòng (Bắc Việt Nam) Tốt nghiệp Y Khoa Ðại Học Hà Nội. Ðịnh cư tại California (Mỹ). Hoạt động: Làm thơ, viết nhạc từ thiếu thời... Sáng tác: Sách: THƠ - Tiếng Sáo Trương Chi ; Nhà Ma; Hòn Ðảo Vô Danh; Những Ngày Ðẹp Nhất; Người Xưa Cảnh Cũ; Giáng Kiều, Tú Uyên KỊCH THƠ: Hoàng Hậu Ly Cơ; Ánh Ngọc Tiểu Thư..TẬP NHẠC: Tuổi Thơ Ngây; Ngày Mai Em Ði Trăng Sáng Trên Sông Hương; Hồ Than Thở; Nếu Một Ngày Mai.. Truyện Tranh, tập I :Giáng Kiều, Tú Uyên (Việt Anh Pháp);- BĂNG CASSETTE: Tiếng Hát Quê Hương; Những Nụ Hôn Ðầu; Một Ngày Vui (Ngâm Thơ) ; Hoàng Hậu Ly Cơ (Kịch Thơ) -CD: Trở Về; Những Ngày Ðẹp Nhất (Ngâm Thơ)-Tu Là Cõi Phúc; Cô Gái Liễu Khê; Trường Hận Ca (Dân ca, vọng cổ)-Tuổi Thơ Ngây; Ngày Mai Em Ði; Hãy Chờ Anh; Who Will Tell Me (Nhạc)- Sẽ In: Vietnam 2000: the land, the people. Bác sĩ Phạm Văn Hải, là một người đa tài, một trong những người chúng tôi ngưỡng mộ. Ngoài nghề chuyên môn là Y sĩ Thẩm Mỹ, ông có mặt trong hầu hết các ngành văn học, nghệ thuật : thi, văn, nhạc, họa….Khi chúng tôi gặp nhau, ông đã quá tuổi cổ lai hi, nhưng vẫn giữ được nét trẻ trung, nhanh nhẹn…và còn dư sức tiếp khách đến trễ trong ngày. Ông có thêm khả năng chuyển dịch thơ mình qua Anh ngữ và tự phổ nhạc lấy, và ông đã làm chúng tôi ngỡ ngàng thêm khi chỉ cho xem một vài dự án sắp thực hiện của ông. Với sức sáng tác phong phú-qua mấy chục tác phẩm thơ, nhạc. ..nêu trên, ông quả là một hiện tượng trong giới y khoa. Thơ ông nhẹ nhàng, phóng khoáng, không gò bó trong vần điệu, đã nói lên tư tưởng yêu đời và tình cảm lãng mạn, trong sáng của ông. P H Ư Ơ N G D U Họ tên: Nguyễn Bá Hậu, Y Khoa Bác sĩ (1951). Sanh năm 1924, thuộc gia đình trung nông, làng Phương Canh, Hoài Đức, Hà Đông. Lúc nhỏ học ở trường làng, sau ra Hà Nội trọ học và tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ năm 1951. Di cư vào Sàigòn năm 1954 và hành nghề y sĩ đến 1971; qua Pháp ở miền Jouy-en-Josas, mở phòng Châm Cứu tại Montrouge (Paris). Bác sĩ Nguyễn Bá Hậu là con người đa cảm, đôn hậu… nhưng lại thích làm thơ với những ý lời giản dị, tao nhã, hồn nhiên. Đã in: Tha Hương (Thơ) 1986; Tình Thương (Thơ) 1991 và Tình Thương 1993… Nhà thơ Phương Du với chúng tôi gặp nhau không lâu, nhưng đã có sự cảm thông sâu sắc, có lẽ vì cùng sinh hoạt trong một môi trường (y học) và có một sở thích giống nhau (thơ văn). Dù đã quá tuổi cổ lai hi, sức khỏe của ông còn rất tốt, phong thái hồn nhiên, tính tình thuần hậu, đã có dip dậy cho chúng thôi thêm một bài học về cuộc sống và xử thế. Thơ ông đa số theo thể Đường luật và truyền thống, hướng về những vấn đề tôn giáo, xã hội, quê hương… nói lên một tâm hồn bi cảm của nhà thơ; ngoài ra, ông cũng có một số bài thơ dịch rất thanh thoát…Xin tìm đoc thơ ông trong tập Tha Hương (1986) và Tình Thương 2 (1993) để hiểu thêm hoài bão và bút pháp của tác giả Phương Du. PHƯƠNG TRIỀU Sinh quán: Sa-dec (Nam ViệtNam). Dạy học (Trung học Tư thục Cộng Hòađường Trương Minh GiảngSàigòn. Gia nhập làng báo Sàigòn năm 1959 .Tốt nghiệp Khóa 23 Trường Bộ Binh, Thủ Ðức .Sĩ quan Báo chí Bộ Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa. Ðịnh cư tại Hoa Kỳ ngày 19.04.1994 theo diện cựu Tù nhân Chính trị. Ðã in: Còn Nhớ Còn Thương (Tập truyện-Sông Hậu -Sàigòn 1966) -Tiếng Hát Hoàng Hôn (Tập truyện, Sông Hậu -Sàigòn 1969) - Sầu Hương Phấn (Tập truyện, Sông Hậu - Sàigòn 1972) -Thơ Phương Triều (Thơ, Tình Thương , California 1995) -Trăm Bài Thơ Xuân (Thơ, Lê Huỳnh , Hoa Kỳ, 2001) -Se in. Xóm Mộ- Giọt Sữa Ðất… Thực tế, chúng tôi mới quen biết nhà thơ Phương Triều cách đây hơn 10 năm, khi còn cộng tác với nguyệt san Rạng Ðông, và Lạc Việt ở vùng Atlanta Georgia, miền Ðông nước Mỹ. Ngoài ra, qua một số nguyệt san nhu Hồn Việt (Nam California), chúng tôi đã được đọc một số thơ của ông, có sức cuốn hút nhẹ nhàng, qua những vần thơ bình dị và điêu luyện, chứng tỏ trình độ vững vàng của nhà thơ. Gần đây, trong dịp vận động để biên soạn tuyển tập Thơ Việt, chúng tôi đã liên lạc và mời ông tham gia, và sau một thời gian suy nghĩ, ông đã vui lòng hỗ trợ công tác của chúng tôi. Ðọc mấy tác phẩm về Thơ của ông gửi cho, chúng tôi thấy những nhận xét của các nhà thơ Huy Tram và Ho Truong An rất xác đáng và đầy đủ. Trong bài : Thơ Phương Triều và Những Khúc Phim Dời đầy cảm động, Huy Trâm viết:”...Thơ của ông là một đổi mới về nội dung trong dòng thi ca hải ngoại. Về thi pháp, Phương Triều làm thơ bằng sự rung động và chia xẻ trước cảnh đời, do đó, bút pháp của ông tự nhiên, mộc mạc tuy vẫn giữ được cốt lõi văn chương. Một điểm đặc sắc nữa, trong thơ Phương Triều là ông đã đem được những chữ dùng, những thành ngữ của cuộc đời vào thi ca.Chính điều này làm bài thơ dễ dàng truyền cảm và đi vào đại chúng..” Nhà văn (và nhà thơ) Hồ Trường An, trong bài: “Phương Triều, Những Bài Thơ Cảm Khái Ngậm Ngùi…”, nhận xét:”. ..Ðừng tưởng… thơ anh hoàn toàn bộc trực và đơn giản. Trái lại, anh chơi chữ (jeu de mots) rất tuyệt vời, anh bóng gió một cách hoa mỹ. Tuy nhiên, anh không làm dáng, không thoa son đánh phấn cho thơ, không tô lục chuốt hồng cho thơ. Cách chơi chữ, cách bóng gió đó, chẳng những không làm mất sự chân thành của anh trong thơ mà còn làm nổi bật sự khinh bạc, tài trào lộng của anh, tô điểm thơ anh một sắc thái vô cùng độc đáo…” S O N G L I N H Họ Tên: Vũ Đình Long. Bút hiệu khác: Hoài Nhân. Sinh năm : Kỷ Mão tại Bắc Ninh. Trước 1975: Bắt đầu làm thơ từ 1959. Cộng tác với các báo: Sống, Hành Động, Dân Đen, tuần báo Văn nghệ Tiền Phong; Chiến sĩ Cộng Hòa; đặc san Hải Quân; Biệt Động Quân … Sau 1975: Tù cải tạo. Định cư: tại San Jose, California, Mỹ, năm 1993.- Hoạt động văn học nghệ thuật - cộng tác với hầu hết các nhật báo, tuần báo, nguyệt san Việt Nam ở Mỹ. -Đã in (chung): Một Phía Trời Thơ 1, 2, 3, 4, 5 do Thi Đàn Lạc Việt xuất bản; Cụm Hoa Tình Yêu 2, Hội Thơ Tài Tử Việt Nam ấn hành. -In riêng: -Thân Phận và Tình Yêu (Thơ) - 1996 ; Nửa Đời Còn Đó (Thơ) –1998; - CD Thơ nhạc “Hãy Cho Anh”, gồm 14 tình khúc do một số nhạc sĩ tên tuổi vùng Bay, California phổ từ thơ Song Linh . Nhà thơ Song Linh và chúng tôi gặp nhau vào mùa thu năm 1994. Trong chương trình vận động sự cộng tác rộng rãi của các bạn yêu thơ, ông đã tự động đến với Thi Đàn Lạc Việt, trong phần vụ Tổng Thư Ký, bỏ công của, thì giờ vào việc củng cố và phát triển cơ sở ở địa phương. Ông là người có tinh thần hăng say, tích cực, nói chung, đã giúp một phần không nhỏ, vào công tác điều hành hoạt động và xây dựng cơ sở với tính tình cởi mở, bộc trực của một quân nhân. Song Linh có sức sáng tác dồi dào - mặc dầu mắc chứng đầu thống kinh niên - trên bàn làm việc của ông luôn luôn thấy những trang thơ viết vội, ghi lại những cảm nghĩ nồng nàn, tha thiết trong giấc nghỉ trưa. Thơ ông có sức cuốn hút nhanh, bởi những tình ý mặn mà và lời thơ hết sức hoa mỹ và lãng mạn. THU VỀ lá bỏ đi hoang Cây trơ trụi đứng thở than một mình Sương mai vài giọt lung linh Nắng lên hoa vội trao tình bướm ong Đường đời xuôi ngược long đong Non cao gió hú mây bồng bềnh trôi Cho nhau mới nửa cuộc đời Mà sao cay đắng thành lời sang thu Một mai gom hết tâm tư Trả em và cả cõi mù tình yêu== (Sang Thu) Bàn về thơ Song Linh, nhà văn Nhật Thịnh viết:”...Anh đã sớm có một giọng thơ ngọt ngào của thứ trái chín đầu mùa, miên man của dòng sông Đuống cuồn cuộn trôi xuôi và thứ ngôn tình kín đáo, kiêu sang, ẩn ức, gây nhiều nghĩ suy của chốn rừng già, trinh nguyên đất Bắc”. Giáo sư Cao Thanh Tâm, Sacramento, trong thi tập Nửa Đời Còn Đó của Song Linh, nhận xét về “Tình” trong thơ tác giả, như sau:”...Cuộc đời của anh có nhiều biến chuyển, thế nên thơ “Tình” của anh rất đa dạng,..rất dễ dàng rung động trước những khung cảnh nên thơ của tạo hóa... Lãnh vực tình yêu lứa đôi được anh đặt nặng hơn, nồng nàn hơn, âu đó cũng là tâm lý thường tình của người nghệ sĩ. “ Bà tin tưởng là: ”...Thơ anh dễ đi vào lòng người đọc và giữ một chỗ đứng khiêm tốn nhưng vững vàng.”Thiển nghĩ đó cũng là cảm nhận chung của chúng tôi, những người làm thơ và yêu thơ ở xứ người đối với nhà thơ Song Linh. S O N G N H Ị Họ tên: Trần Kim Lý. Sinh năm 1938 (Mậu Dần) tại Hà Tĩnh. Vô Nam phần (Việt Nam): 4/1960. Theo học Đại Học Luật Khoa và Vạn Hạnh - Sàigòn (1965-69). Hoạt động trong ngành giáo dục và báo chí. Nhập ngũ năm 1969. Bút hiệu khác: Hà Việt Tĩnh, Thiên Lý, Hoa Phương . Sau 1975: học tập cải tạo nhiều năm ở Nam và Bắc. Định cư ở Bắc California từ đầu thập niên 1990, diện HO. Tham gia sinh hoạt với Thi Đàn Lạc Việt (1994-95) - biên tập Một Phía Trời Thơ I - Giải Thưởng Thi ThơKỳ I do Thi Đàn Lạc Việt tổ chức; Sáng lập và điều hành Cơ sở Thi Văn Cội Nguồn từ giữa năm 1995 cùng một số văn, thi hữu khác. Hiện là Chủ bút nguyệt san Khơi Nguồn (tiếp theo NS Nguồn) từ 2005. Đã in: (ở hải ngoại) Tiếng Hờn Chiến Mã, Thơ, 1996; Về Lối Đi Xưa, thơ 1999; Lưu Dân Thi Thọai, khảo luận Thơ (cùng Diên Nghị) 2003; Tiếng Hót Loài Chim Di, Thơ, 2004… NT Song Nhị đến với chúng tôi vào năm 1994, tham gia sinh họat trong Thi Đàn Lạc Việt, và đã góp nhiều tâm sức trong việc thực hiện tuyển tập Một Phía Trời Thơ - I, gồm gần 40 tác giả, đa số đã thành danh, một tác phẩm nói chung có bề thế. Trước đó, chúng tôi biết nhau qua cuộc Thi Thơ hàng năm của Hội Tết do Liên Hội Người Việt Quốc Gia Bắc Cali tổ chức, sau cuộc Thi Thơ Liên Xứ, kỳ I, do Thi Đàn Lạc Việt khởi xướng năm 1994 (sẽ có dịp nói thêm trong một bài khác). Trong thời gian 10 năm, từ ngày thành lập Cơ sở Cội Nguồn, NT Song Nhị đã cố gắng hoạt động hết sức mình, tạo được một số uy tín cho cơ sở, và chỗ đứng tương xứng cho bản thân trên văn đàn Việt Nam hải ngoại… Đáng tiếc đã gặp vài ngộ nhận của một số người cầm bút, nhưng xét ky ra cũng khó tránh được. Qua những thi phẩm đã in, Song Nhị chứng tỏ một hồn thơ nhậy cảm và một bút pháp vững vàng. Lời thơ hào hùng, không thiếu mỹ lệ, ý thơ dồn dập… nói lên tư tưởng yêu nước nồng nàn, tinh thần kiên cường của những chiến sĩ đấu tranh cho lý tưởng, nhưng tiếc vì “sinh bất phùng thời” nên chỉ còn gửi gắm tâm sự trong “tiếng hờn chiến mã” oanh liệt thủa nào: Chiến mã lẫy lừng bao chiến trận, đã đi là quyết một lần đi... Thật là buồn nhưng cũng đáng ngưỡng mộ. SƯONG MAI Họ tên: Bùi Phụng Mai. Bút hiệu khác: Hương Mai.Sinh năm 1950 tại Cần Thơ. Thích hoat đông văn nghệ. Làm thơ từ năm ở trung học. Định cư ở San Jose California - Mỹ từ năm 1975. Làm nghề Real Estate và Mortgage Finance (Tài Trợ & Địa Ốc). Làm khá nhiêu thơ và ấn hành một số thi tập, - như Thơ Sương Mai… có bài đăng trên nhiều báo chí, tập san ở Mỹ, Pháp, Úc…nổi tiếng trong giới phụ nữ làm thơ. viết văn trong, ngoài nước...Tham gia, cộng tác với các cơ sở Thi Đàn Lạc Việt - Thi Văn Cội Nguồn, Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Sacramento… Hiện cư ngụ tại Fair Oak, Bắc California. Tác phẩm đã xuất bản: Thoảng Chút Hương Xưa 1996 -Thơ Tình Sương Mai 1998 -Trăng Mộng 2000 - Yêu Dấu Tan Theo 2003… Xin đọc trong TT MPTT I, có nhiều bài thơ đủ thể loại của Sương Mai làm rất đạt, được thi văn giới đánh giá cao… TÂM HUYỀN Họ Tên: Ðặng thị Tầm, sinh năm 1922, làng Hành Thiện, tỉnh Nam-định (Bắc Việt Nam). Di cư vào miền Nam năm 1954. Qua định cư ở Montreal (Quebec) - Canada, cuối năm 1985. Hội viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Trung tâm Quebec từ 1986. Thủ quỹ Trung tâm Quebec từ 1991 đến 1997. Thơ đã đăng: Hành Thiện Xã Chí, Vượt Biển, Nắng Mới, Lửa Việt, Tuyển tập Văn Bút Trung tâm Quebec, Nội san Hành Thiện (Hoa Kỳ và Âu Châu), Lá Thư Bô lão, Ý Dân, Liên Hội Canada, Quốc Gia, Hương Quê, Tuyển tập Văn Lâm Xã 1,2- Vườn Thơ Tâm Tình, Gửi Người Dưới Trăng, Hành Thiện Thi Tập 1, 2-Thi Văn Tập Xuân Thu (1998). Thơ đã in: Duyên Thơ (1985- 1999) tại Hoa Kỳ, 1999. Sẽ in: Thơ Tâm Huyền (1938-1954) Nữ sĩ Tâm Huyền gia nhập Làng Thơ Việt Nam đã lâu, nhưng chúng tôi thực sự được gặp Bà vào khoảng giữa năm 1994, trong một buổi sinh hoạt định kỳ của Thi Ðàn Lạc Việt ở miền Bắc California. Thời gian ấy, Bà đã trên 70 tuổi nhưng dáng dấp còn khỏe mạnh, lời nói lịch thiệp. Kỷ niệm chúng tôi còn nhớ mãi là lời phê bình của Bà về sự sử dụng một số từ (mà Bà cho là của Việt Cộng) trong buổi họp,mà thực ra chúng tôi thỉnh thoảng có dùng để cho cử tọa chú ý và sinh hoạt được vui thêm. Bà là người hiếu khách và yêu thơ, mỗi khi qua Cali. thăm gia đình, thường mời và chiêu đãi bạn bè đến sinh hoạt thơ thật tận tình. Bà là người có lòng, nhiệt tình ủng hộ các văn thi hữu, nên được thi văn giới cảm phục. Năm 1999, Bà cho xuất bản thi tập Duyên Thơ được các giới đánh giá cao, và khi tổ chức ra mắt ở San Jose, đã thu hút một số khán thính giả khá đông, một thành quả ít có trong giai đoạn ngưng đọng hiện nay. Trong lời tường thuật của nguyệt san Khởi Hành số 48, có giới thiệu về Duyên Thơ như sau: “Duyên Thơ dầy đúng 200 trang, in tên giấy quí màu ngà.. Duyên Thơ xuất bản trước, vì đó là tâm sự của bà trong thời gian xa đất nước, cùng thơ xướng họa với khoảng 30 nhà thơ khác..” Trong lời tựa tập thơ, nhà thơ Hà Thượng Nhân viết: “Nhà thơ Tâm Huyền…làm thơ từ thủa thiếu thời, đã trên nửa thế kỷ....Bà chuyên về Luật thi. Theo ông, Thơ luật thật dễ dàng dưới ngòi bút của tác giả Duyên Thơ, đọc thơ Bà không thấy luật đâu cả, dễ dàng như lời nói, vì với những người làm thơ lão luyện, nói là ra thơ… Theo nhà thơ Viên Linh, “...Tâm Huyền làm thơ dùng thật ít chữ mà nói được nhiều vì bà đã vận dụng kho tàng thành ngữ điển tích, mà cứ xem thơ biết là bà đã thuộc lòng...Thơ bà còn là thơ khẩu khí của một trượng phu, với những câu như: ...Thì nên dùng bút như gươm dáo, Bõ lúc còng tay bởi xích gông!.. Theo ý nhà thơ Tâm Huyền, thơ là nỗi niềm riêng, nhưng thơ cũng cần có bạn thì nguồn cảm hứng mới có thể dồi dào. Khách quan mà nói, nữ sĩ Tâm Huyền, với tuổi đời khá cao, và nghệ thuật điêu luyện (nhất là thơ Ðường) đã có một chỗ ngồi tương xứng thuộc lớp người đi trước, trong làng thơ Việt ở ngoài nước. THAI NC Họ tên: Nguyễn Cao Thái. Bút hiệu khác: Nguyễn Ngự Bình. Sinh năm 1959 tại Huê. Khởi viết trên nhật báo Chính Luận từ năm 1973 (Trang Mai Bê Bi). Định cư ở San Jose California, Cộng tác với các báo Văn, Làng Văn (Canada), Việt Báo – Giai Danh Dự “ Viết Về Nước Mỹ” năm 2012. Tác phẩm in: Mặt Trời Nhỏ - Truyện ngăn - 1991- Bay Trên Miền Quá Khứ - Tập truyện; Còn Duyên Mình Sẽ Gặp – Truyện ngắn và Tùy bút.- Trong Thế Giới Của Ba – Đoăn bút - Viết Cho Con. Hiện cộng tác với Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt San Jose. T H Á I Q U Ố C M Ư U Họ tên: Thái Quốc Mưu. -Sanh ngày 11/02/1941 tại Kiến Hòa-Lớn lên ở Mỹ Tho (NamViệt Nam). Trước 1975: công chức ở Mỹ Tho, Sàigòn, Long Khánh ; Chức vụ cuối cùng: Thanh tra trưởng các Dự án Phát Triển xã, tỉnh Long Khánh.Bị CS bắt và tù đến 28/3/1983; Định cư tại Mỹ từ 22/02/1992. Hoạt động Văn học: qua các bút hiệu Liêu Tần Tử, Liêu Tiên Sinh, Bằng Giang, LK/316, Thái QuốcMưu… Biên tập Nguyệt San Nông Thôn Vùng Dậy, Nông Thôn Mới, Bộ Xây Dựng; Chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Kiến Thức Phổ Thông, Dân Việt, Georgia từ 1995; Chủ trương Mạng Lưới Dân Việt On Line. com từ 9/2000 ; Hội viên Trung Tâm Văn Bút Hải Ngoại, Florida.Tác phẩm in: - Gió Quyện Hương Đồng (Thơ-Văn); Phía Sau Cuộc Đời (Phóng sự Tiểu Thuyết) - Sẽ In: - Kỷ vật cho đời (thơ) - Thơ Đường luật Thái Quốc Mưu - Lửa tình (truyện ngắn) - Tuyển tập: Truyện ngắn Thái Quốc Mưu… … Hơn mười năm trước đây, chúng tôi được tin cây bút Thái Quốc Mưu mới từ Việt Nam qua định cư ở miền Đông nước Mỹ theo diện HO, và đang sửa soạn nhẩy ra…làm báo lại . Và, sau đó là tờ nguyệt san Kiến Thức Phổ Thông - Dân Việt- ra đời, mà ông là tài-chủ, tức là chủ lớn,- chứ không (chỉ là) chủ biên, vì một mình ông kiêm luôn chủ nhà, chủ nhiệm, và chủ bút! Năm 1997, chúng tôi có dịp qua thăm Atlanta, nhưng không được gặp ông - (đi công tác vắng). Lúc này tờ Kiến Thức Phổ Thông đang gặp nhiều thử thách, nhưng vẫn vượt qua được, và đến thời điểm này, nó có vẻ phát triển mạnh, chứng tỏ khả năng lèo lái của người chủ trương. Thời gian sau, chúng tôi bất ngờ nhận được thi văn tập Gió Quyện Hương Đồng do tác giả gửi tặng, và qua năm 1999 lại được đọc thêm tập Phía Sau Cuộc Đời, một phóng sự tiểu thuyết dài, rõ ràng chứng tỏ khả năng đa dạng của ông. Trong bài này, chúng tôi xin chỉ xin góp ý kiến về thơ Thái Quốc Mưu, qua những bài đã sưu tập được. Theo ý kiến của cây bút Lê Trường Giang: “… làm thơ quả tình rất khó mà nhận xét thơ lại càng khó hơn. Thơ của Thái Quốc Mưu chú trọng đến nhạc tính, nặng về âm vần, nhẹ về chuyên chở ý tưởng, nên đọc thơ anh thoải mái, ít mệt óc phải tìm tòi những triết lý thâm sâu...Thơ anh giản dị, chân tình.” Thực ra, chúng tôi nghĩ, - như phần đông - làm thơ trước hết là để cho mình, làm thơ để diễn tả, ghi lại một tâm trạng, những cảm nhận, thái độ, lập trường … của mình đối với ngoại cảnh, thiên nhiên và xã hội…Thơ cần có sự cảm thông của người đọc, nên phải có khả xúc tính và cách tân (luôn tìm cái mới, lạ). Nhà văn Trần Trung Thuần, một cây bút tài ba, đã có lý khi xếp Thái Quốc Mưu vào hàng ngũ vói những tác giả đã thành danh trước đây. Với sự tán thưởng, phê bình của mấy chục nhà văn, nhà thơ lão thành, hữu danh…với khả năng đa dạng, Thái Quốc Mưu hẳn sẽ có một chỗ đứng tương xứng trong hàng ngũ những người làm văn học nghệ thuật Việt Nam ở nước ngoài . T H A N H H I Ề N Họ tên: Nguyễn Di Thi. Sinh năm 1945 tại Long Điền, tỉnh Bàrịa (Phước Tuy). Bút hiệu khác: Thanh Tâm, Dị Nhân, Nguyễn Đỗ Hoài Hương.. Định cư ở Mỹ (Florida) từ 1975. Làm thơ từ 1985. Đã in: Biển Nhớ (1933); Biển Sầu (1994). Sẽ in: Biển… Thanh Hiền đến với chúng tôi qua nguyệt san DUYÊN ấn hành ở miền Bắc California, từ 1993. Khi bà xuất bản thi tập Biển Sầu, chúng tôi được mời viết lời Bạt, thật là một hân hạnh. Trong Thay Lời Tựa, nhà thơ Vĩnh Liêm đã ví tác phẩm Biển Nhớ như một trái bom nổ chậm (trong làng thơ) ở hải ngoại. Vì ở Việt Nam, từ thời tiền chiến, sau hiện tượng”TTKH”, chỉ có Lệ Khánh (thời Cộng Hòa Miền Nam - 1954- 75) được coi là một nhà thơ nữ “nặng ký” với bẩy (7) tác phẩm ra đời, nhưng nổi tiếng (trong thi giới) là tập “Em Là Gái Trời Bắt Xấu !”. Ý kiến của ông Vĩnh Liêm có lẽ không quá đáng vì riêng tập Biển Nhớ đã có gần 150 bài thơ , và với tập Biển Sầu, số thơ tăng gần gấp đôi (300), như vậy, về một mặt nào đó, đã nói lên sức sung mãn của Thanh Hiền trong sáng tác, qua những vần điệu tề chỉnh, nhuần nhuyễn đầy cảm xúc (tình và nước mắt). Hẳn đó là phản ánh từ tâm tư người đàn bà đã gặp quá nhiều ngang trái, khổ đau, tuyệt vọng... trong những hoàn cảnh nghịch thường (chiến tranh, lưu vong...). Nếu bạn đọc nào đã dược đọc tập Định Mệnh, hồi ký của nhà thơ (TH) , sẽ mau chóng cảm thông nỗi lòng của tác giả. Điểm nổi bật là Thanh Hiền ưa dùng thể lục bát trong thơ, người ta ít thấy những bài ngũ, thất ngôn... của tác giả . T H A N H T H A N H Họ Tên : Lê Xuân Nhuận. Bút danh: Thanh Thanh (Thơ); Kiều Ngọc (văn); Nguyệt Cầm (Kịch); Người Thơ (luận); Tú Ngông (trào). Trước 1975: Có thơ văn đăng trên các báo “Truyền Bá” và “Tiểu Thuyết Thứ Bẩy” ở Hà Nội từ năm 1943;Chủ trương “Thi văn đoàn Xây Dựng” mà thành quả được Đại Hội Văn Hóa Toàn QuốcViệt Nam Cộng Hòa công nhận là một cành trong “Cây Đa Văn Hiến Việt Nam” cuối thập niên 1950. Tác phẩm in ỏ hải ngoại: “Về vùng Chiến Tuyến”-Hồi Ký, “Văn Nghệ”; -“Cơn Ác Mộng” (Thơ, “Xây Dựng” -Một phần dịch thuật trong các Tuyển tập Thơ:“The Silence of Yesterday” (Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn); -“Flowers of Love” (1,2 Hội Thơ Tài Tử Việt Nam). Thanh Thanh là bút hiệu của nhà văn Lê Xuân Nhuận, một cây viết quen thuộc trong văn giới với những luận khảo về chính trị và hồi ký. Trong lãnh vực thơ, ông đã có những cố gắng đáng phục để làm sống lại và làm mới bộ môn này qua những sáng tác và dịch phẩm song ngữ có một giá trị đáng ca ngợi như mấy nhà thơ Kim Vũ, Minh Viên... Thanh Thanh là một nhà thơ thật sự yêu thơ và hết lòng vì thơ, bằng những sáng tác riêng và những đóng góp liên tục cho các cơ sở hoạt động thơ văn ở ngoài nước. THẢO CHI Họ tên : Bùi Mỹ Hoa Sinh ngày 03 tháng 6 năm Nhâm Thìn tại Bình Thủy, Cần Thơ - Việt Nam.Làm việc ngành bảo hiểm ở San Jose, cư ngụ tại Fair Oaks, Bắc California. Đã in: 4 thi phẩm - Nhẹ Bước Vào Thơ 1999 - Hoa Ô Môi 2000 - Xin Cảm ơn Thành Phố Có Anh 2001 - Thu Gọi Tình Nhân, 2004. Thảo Chi xuất hiên trên thi đàn có vẻ hơi muộn, và lặng lẽ - những năm cuối thâp niên 1990 - nhưng đã mau chóng nổi bật, qua hai thi phẩm đâu tay, vì tài ba và thực lực của mình. Thơ cô hay với những sắc thái riêng, sách in đẹp, cùng nhiêu hình ảnh sống động, chuyên nghiệp - tác giả hẳn rành về nhiếp ảnh - Thảo Chi đã sớm được dành cho một vị trí xứng đáng trong làng thơ Việt hải ngoại đông đảo! Và sau ngày ấy là thi phẩm thứ ba “ Xin Cảm Ơn…”đã ra đời… THI CẦM Họ tên: Phạm Quang Khánh. Sinh năm 1959, tuổi Song Ngư- tại Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang, Nam Việt Nam. Định cư ở San Jose sau tháng 4/1975. Sở thich: Hát, ngâm thó, thổi sáo, đàn và viểt nhạc… Ưa những bài hát trai tịnh, lãng mạn và nhẹ nhàng…đượm tình quê hương. Ca sĩ mến mộ: Duy Khánh, Ái Vân…Thường cộng tác với các báo văn nghệ vùng Thung lũng Hoa Vàng từ 1982: Thằng Mõ, Trống Đồng, Chioong Việt, Yêu, Đât Đứng, Việt Nam, Thời Báo…Luôn tham gia sinh hoạt bất vụ lợi với Thi Đàn Lạc Việt và các chương trình biểu diễn văn nghệ trong vùng…Năm 1995, đã in chung thơ với nhà thơ Phúc Hữu…cùng tham gia tuyển tập Một Phía Trời Thơ I…vói gần 40 thi hữu khác… T H I Ê N T  M Họ Tên: Đặng Phương Trạch. Sinh quán: Trà Vinh-Việt Nam. Bút hiệu: Thiên Tâm, Tâm Đăng, Giang Sơn, Thanh Thiên Kim.Làm thơ: Từ ngày học Trung Học (Petrus Trương Vĩnh Ký), Sàigòn. Vượt biển đến Mỹ. Định cư ở San Jose từ 1980. Có thơ in chung trong : Thi tập Bốn Biển Thơ Chung Nối Nhịp Cầu, 1995, Thi Đàn Lạc Việt (Mỹ); - Một Phía Trời Thơ 2, 3, 4, 5- Thi Đàn Lạc Việt -1997, 1999, 2001, 2003; - Tuyển Tập Xuân Thu 1998, Hội Văn Học Nghệ Thuật. Nhà thơ Thiên Tâm đã biết làm thơ từ hồi ở Trung Học, nhưng vì nghề nghiệp chuyên môn (y khoa) bận rộn, ông chỉ làm thơ khi rảnh rỗi. Chúng tôi được biết nhau khi Thi Đàn tổ chức cuộc Thi Thơ liên xứ lần I, trong đó ông là người ở San Jose tham dư đầu tiên, với bút hiệu Thanh Thiên Kim. Tiếp sau đó, ông đã sốt sắng tham gia các tuyển tập “Một Phía Trời Thơ” do Thi Đàn Lạc Việt ấn hành. Vóc người trung bình, cử chỉ nhã nhặn, tánh tình thẳng thắn, rộng rãi, ông rất được lòng mọi người, từ thân chủ đến các thân hữu. Ông đã sáng tác nhiều thơ, đủ thể loại (lục bát, thất ngôn, thơ mới) , thời gian sau này, theo lời ông- chuyên chú về thơ Đường luật- và đang chuẩn bị in thành sách trong một tương lai gần. Thơ ông chững chạc, niêm vận vững vàng, hướng về gia đình, quê hương, đất nước, có nhiều bài làm tặng hiền nội và con gái, đọc rất cảm động, phản ánh đúng tâm hồn đôn hậu, yêu đời của ông. Cái đáng quí hơn có lẽ là tinh thần hỗ trơ tích cực của hai ông bà đối với những công tác xã hội và văn hóa ở địa phương. Có thể nói tâm tư của ông gói ghém trọn vẹn trong bài thơ thể thất ngôn trường thiên được trình bày theo hình thức mới sau đây: “ Tấp tểnh làm thơ thuở học trò, từ hồi xa nước vẫn làm thơ. Văn chương dẫu chán chê nhiều lúc, nhưng chẳng làm thơ khó mộng mơ. Thời loạn nhân tâm càng biến loạn, nương thân đất khách ngậm ngùi thơ. Thơ dù hay dở là tâm sự, tri âm , tri kỷ biết ai giờ ?Tiếng Việt không rèn, ngày một kém, làm thơ chẳng uổng tháng ngày qua. Quê Hương vạn dặm về trong mộng, lai láng tình thơ, ta với ta. Muốn nói gì cho vơi nỗi hận, túi thơ, trà rượu cứ ngâm nga. Còn trời còn đất, còn hi vọng, nhìn lại giang sơn buổi thái hòa. Thế thái nhân tình muôn thủa vậy, người hay, kẻ dở lắm dèm pha. Tấm lòng mong được như trời bể, một tấm lòng son ta với ta…” THÚY SƠN Họ tên: Hoàng Văn Thúy. Sinh quán: Thái Bình (Bắc Việt Nam) Trước 1975:- Học chữ Hán và Ðông Y - Di cư vào Nam phần 1954. - Công chức Bộ Giáo Dục, miền Nam Việt Nam. -Ðịnh cư tại San Jose (California-Mỹ) 1980 -Thích làm thơ chữ Hán và viết truyện ngắn - Cộng tác với Làng Văn, Việt Nam Nhật Báo … Chúng tôi gặp nhau qua diễn đàn văn học nghệ thuật ở vùng Thung lũng Hoa Vàng, trong các buồi sinh hoạt thơ văn, học thuật. Với biệt tài làm thơ chữ Hán, cây bút Thúy Sơn đã tự tạo cho mình một vị trí riêng trên văn đàn, một cách thầm lặng, đáng ngưỡng mộ. THÚY VŨ Họ Tên : Vũ Thị Mộng Thúy -Bút hiệu khác: Mộng Thúy. Nghề nghiệp: Giáo sư Trung Học. Cư ngụ”Tampa, Florida,Mỹ. -Thơ in chung: Một Phía Trời Thơ 2, 3 Thi Ðàn Lạc Việt, Bắc California 1997, 1999. Chúng tôi quen biết nhau mới hơn 9 năm, cũng do duyên thơ đưa tới. Mùa Hè 1996, nhân đến thăm một người-bạn-thơ, sau nghi thức thường lệ, chúng tôi được giới thiệu với ThúyVũ, một người đến từ Florida, xứ mà chúng tôi vẫn ao ước đến thăm vì nổi tiếng với những bãi biển đẹp và nắng ấm quanh năm. Và chỉ sau vài câu trao đổi chúng tôi đã trở nên thân tình. Mùa Hè năm sau, chúng tôi có dịp được ghé Florida và không quên đến thăm gia đình cô ở Tampa. Ít lâu sau, chúng tôi được đọc tuyển tập Một Phía Trời Thơ 2, và thực sự cảm động khi được thưởng thức bài “ Gọi Người Yêu Dấu” của cô, lời thơ rất đẹp và trữ tình, nên đã phổ thành nhạc, qua bút hiệu Triều Ðông, dưới nhan đề mới là “Em Về Mắt Biếc Mưa Ðông”. Có dịp gần nhau, mới biết Thúy Vũ, ngoài tâm hồn thơ mộng, còn là một nội trợ đảm đang, xông xáo lo toan đủ mọi việc cho gia đình, và cộng đồng; vài bạn nói phải gọi cô là nội tướng, có lẽ cũng không ngoa. Dù tính tình cứng cỏi ngoài đời, nhưng Thúy Vũ đã sáng tác nhiều vần thơ-rất-thơ, có sức cuốn hút nhẹ nhàng, làm người đọc đôi lúc bồi hồi, xót xa… cho thân phận con người, thân phận nhỏ nhoi của chính mình. Thúy Vũ còn nhiều việc quan trọng phải lo trước, nên chưa nghĩ đến chuyện phổ biến rộng rãi thơ của mình; có lẽ phải chờ một thời gian nữa, chúng ta mới được thưởng thức toàn bộ sáng tác của cô. Dưới đây, xin trích đăng bài thơ “Gọi Người Yêu Dấu” đã được phổ nhạc với nhan đề mới - Em Về Mắt Biếc Mưa Ðông -qua giọng ca cao vút của Kim Cúc – Saigon…: ...Ðưa tay hứng hạt mưa rơi Gọi thầm người ấy phương trời có hay Mưa từ xa-Mưa về đây Ta nghe như thể hao gầy tuổi hoa Người về..còn có bao xa Xôn xao nỗi nhớ-căng tà áo bay Rượu tình vừa đủ độ say Mắt môi thơm mát ngất ngây gọi mời.. Có không? Hay chỉ mơ thôi Tuyết đan phố núi ..tình chơi vơi chờ .. Mưa đông hồn bỗng thẫn thờ Bảng đen, phấn trắng, ơ thờ, mắt cay Em về gửi gió cùng mây Trả lời hò hẹn, trả ngày tháng mong. Em về mắt biếc mưa đông Gọi người yêu dấu bềnh bồng tình xưa! Trọng Ðông 96 Mộng Thúy THƯỢNG QUÂN Họ tên: Lê Xuân Săc, sau đổi là Lê Văn Săc. Sinh ngày 19/12/1941 tại Môi Dưới, Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam- Băc Việt Nam. Di cư vào Nam (Saigon) năm 1954, theo học các trường Nguyễn Trãi, Luật Khoa…Quân Y. Qua Mỹ sau 4/1975, định cư cuối cùng ở San Jose, làm đủ mọi nghề để sống và nuôi gia đình . Thích viết văn, làm báo, dùng nhiều bút hiệu- gần 20, như: Bạch Sĩ Xuyên, Đă Cẩu Bổng, Hồng Hoài Nguyên,Việt Tiến, Lý Ngô Thị… Chủ bút Tập san Thơ Về Nguồn, Giám đốc trị sự tuần báo Chiến Sĩ Quốc Gia của ông Trần Ngọc Nhuận (1995), chủ nhân Giang Hồng Desktop Publishing…Trong ban Vận Động /Cố Vấn Sáng lập tổ chức “ Hội Thơ Thơ Định Kỳ, - sau đổi ra thành Thi Đàn Lac Việttừ 6/1992. Thơ in chung :Một Phía Trời Thơ 1, 2… T Ị N H N G U Y Ệ T A N H N Ư Ơ NG Họ tên: Bùi Thị Khanh. Sinh năm 1921 tại Hải Phòng, Bắc Việt Nam. Làm thơ từ 1946 dưới bút hiệu Tuyết Khanh. Đạo hiệu: Diệu Lộc, cũng là bút hiệu sau này. Thơ đăng trên nhiều báo Phật giáo trong, ngoài nước. Tác phẩm thơ đầu: Hương Sen (1991- Mỹ). Tịnh Nguyệt Anh Nương với chúng tôi chưa được gặp nhau lần nào, tuy biết bà là mẹ của nghệ sĩ Kiều Loan (ái nữ nhà thơ Hoàng Cầm), người có giọng ngâm (thơ) nổi tiếng, thường trợ giúp chúng tôi trong những sinh hoạt văn nghệ bất vụ lợi. Duyên may, chúng tôi được đọc thi tập Hương Sen và nghĩ nên tìm dịp xin phổ biến rộng những vần thơ thấm nhuần đạo vị của bà… T Ô T H Ù Y Y Ê N Họ tên: Đinh Thành Tiên. Sinh ngày 20-10-1938 tại Gia Định.Trước 1975: Nhập ngũ, trường Sĩ Quan Thủ Đức, khóa 17 (1963); Thiếu tá QĐVNCH (Cục Tâm Lý chiến). Phóng viên chiến trường miền Nam. Đã cộng tác với các báo và tạp chí miền Nam (Sáng Tạo...) từ đầu thập niên 1960. Chủ trương nhà xuất bản Hồng Đức (sau là Kẻ Sĩ) cùng nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ (chị nhà văn Hồ Trường An). Sau 1975: Tù cải tạo trên 10 năm. Định cư tại Mỹ: đầu thập niên 1990. Đã in: Tuyển tập Thơ; Tuyển tập Truyện Ngắn; Hồn Thụy (tiểu thuyết); Phận Người (dịch từ A. Malraux); Thơ Tô Thùy Yên (1995); Thắp Tạ (2004 ). Chúng tôi biết Tô Thùy Yên từ ngày ông còn viết cho báo Sáng Tạo....của nhóm Mai Thảo ở Miền Nam, vào đầu thập niên 1960, khi ấy phong trào Thơ Tự Do bắt đầu nổi lên. Thơ ông sáng tác không nhiều, nhưng có nhiều đặc sắc. Sau 1975, vào cuối thập niên 1980, người ta lại nhắc đến thơ Tô Thùy Yên, sau khi có tin ông toan tính cắt mạch máu tự vẫn... Rồi khi chương trình định cư của HO tiến hành, ở Bắc California, thi văn giới được luân chuyển mấy bài thơ “ Mùa Hạn”, “Tàu đêm”, “Ta Về”, Đọc bài Mùa Hạn …. của ông, ai cũng lắc đầu, ngạc nhiên … vì thơ quá hay. Chính người viết đã nhiều lần nghe Hà (Thượng Nhân) tiên sinh nhắc đến thơ ông, với vẻ ngưỡng mộ đặc biệt. Tô Thùy Yên định cư ở xứ tuyết (Miền Đông Bắc Mỹ) nên ít xuất hiện, trừ một lần ông ghé vùng Nam Vịnh để nhờ chúng tôi tổ chức ra mắt thi tập Thơ Tuyển Tô Thùy Yên vào cuối năm 1995; hiện nay ông đã di chuyển qua bang Texas. Thơ ông thiên về các thể thất ngôn trường thiên, hay tự do, ít thấy những bài lục bát trong tuyển tập này. Những bài thơ được ái mộ thường rất dài: bài Mùa Hạn gồm 47 đoạn (4 câu) và bài Ta Về dài 31 đoạn… bài Tàu Đêm, dài 27 đoạn… TRÀM CÀ MÂU Trước 1975: Làm việc trong ngành Công Chánh, Sài Gòn Sau 1975:Tù cải tạo - 1979:Vượt biển, định cư tại Bắc California (Mỹ). Hoạt động: Viết văn, làm thơ để tiêu khiển. Thỉnh thoảng tham gia sinh hoạt văn nghệ thuần túy với thân hữu. Mươi năm trước đây, chúng tôi được gặp Tràm Cà Mau trong một sinh hoạt thuần túy văn nghệ ở vùng Thung lũng Hoa Vàng. Vóc người nhỏ nhắn, dáng thư sinh, anh trao đổi quan điểm với chúng tôi trong tình thân hữu chân thành. Khi khởi dự án thực hiện Tuyển Tập Thơ Việt … anh là (một trong những) người đầu đứng ra vận động bạn bè tham gia. Tràm Cà Mâu, mặc dầu tương đối trẻ,- là người có nhiệt tâm với hoạt động văn học nghệ thuật và cũng có tinh thần hòa hợp, muốn đoàn kết các cơ sở văn học không cùng khuynh hướng, để có đủ tài lực, nhân lực hoàn tất những công trình có giá trị, đáng được ca ngợi. Trong thư mới đây, anh viết:”..Ngoài ra, tôi có nhận được thư của hai nhóm văn nghệ khác, là nhóm...và… ở Pháp, cùng có ý định xuất bản tập Thi Tuyển… trong 25 năm qua. Hình như mục tiêu cả ba nhóm rất gần nhau, nếu không nói là chung một ý định Nếu có chung một mục tiêu, thì có thể nào cả ba nhóm bàn nhau, tìm cách hợp nhất lại, để làm một công trình đầy đủ, có sự góp mặt của đa số thi hữu hải ngoại, mà khỏi bị phân tán mỏng. Chúng tôi vô cùng cảm động và hoàn toàn tán thành ý kiến của anh, nhưng xét về nhiều mặt khác, như địa lý, nhân tâm, phương tiện, tinh thần…(là những điều kiện tối cần thiết) còn chưa có - đủ, nên chúng tôi đã nghĩ ra một công thức là liên lạc, hợp tác theo chiều ngang giữa các cơ sở văn học ở hải ngoại. mà chúng tôi sẽ phổ biến trong một tương lai gần. Những trở ngại này, chắc anh đã thông cảm ví chính trong thư anh đã viết:” Có lẽ mỗi nhóm có một chủ trương, đường lối riêng, khó hợp nhất…” Về thơ Tràm Cà Mâu, tuy chỉ phổ biến hạn chế, nhưng người ta cũng thấy rõ đường hướng của anh: hình thức vẫn là lục bát, ngũ ngôn, thơ mới, nhưng trong thơ đã chuyên chở những ý tứ, hình ảnh mới, đa dạng tự tạo cho mình một nhân cách riêng.Chúng tôi nghĩ như thế là Tràm Cà Mâu đã đạt được một số thành tựu trong mục tiêu của mình, và đó là điểm cần ghi nhận. T R Ầ N N G  N T I Ê U Họ tên: Trần Văn Quí. Sinh năm 1941 tại Hưng Yên (Bắc Việt). Vào Sàigòn: 1955.Cựu sĩ quan QLVNCH - Khóa 21 Thủ Đức.Định cư tại Mỹ: 1975 (Florida). Chuyên viên điện toán (computer) từ 1978. Khởi viết: 1991. Đã cộng tác với các báo và tạp chí: Làng Văn, Văn Nghệ Tiền Phong, Dân Chủ Mới, Thế Giới, Rạng Đông,Việt Nam Nhật Báo, Sàigon Times, Hồn Việt, Thời Luận… Đã in: Chén Đắng, Thuốc Đắng (Thơ) -. Sẽ in: Tình Đắng (truyện ngắn); Chuyện Cọng Rau Muống (phiếm); Ta với Quê Hương Chung Nỗi Đắng (Thơ); Thuốc Đắng 2 (Biếm thi)... Chúng tôi được đọc thơ của Trần Ngân Tiêu từ mấy năm đầu thập niên 1990 trên những tập san Văn Nghệ Tiền Phong, Làng Văn, Dân Chủ Mới...và rất ngưỡng mộ bút pháp vững vàng, đa dạng của ông. Năm 1997, có dịp ghé thăm Orlando cùng nhà thơ Song Linh, chúng tôi đã được diện kiến và hỗ trợ nhiệt thành của ông (và ban tổ chức) trong buổi hội ngộ với một số văn thi hữu và giới yêu văn nghệ ở địa phương. Thời gian sau này, ông ít tham gia các sinh hoạt cộng động vì vấn đề sức khỏe, nhưng vẫn vui vẻ tiếp tay với những hoạt động của các cơ sở văn học Việt ở hải ngoại. T R Ầ N V Ấ N L Ệ Sinh năm 1942 tại Phan Thiết (Trung Việt Nam). Bút hiệu: Trần Tú Uyên, Trương Nghĩa Kỳ, Trần Trung Thuần, Lê Nguyên Khái…Trước 1975: Giáo sư. Nhập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - Cấp bực sau cùng: Trung Úy. Định cư: Nam California, Mỹ (1990). Hoạt động: Làm thơ từ sớm. Có thơ đăng trên hầu hết các báo Việt Nam ở ngoài nước. Đôi khi viết Nhận định Văn học.Tác phẩm in: gần20 thi phẩm, từ 1991, trong đó có: Bay Về Đâu Đó ỞQuê Hương;Hồn Tan Trong Thơ; Nắng Rớt Vườn Xuân; Gửi Em một Đóa Hồng;Gửi Bạn Mừng Xuân Người; Hỏi Sao Buồn Không Cho Được và May Mà Có Em; Ta nhớ người xa cách Núi Sông; Từ Lúc Đưa Em Về..; Nếu Bước Chân Ngà Có Mỏi; Đời Còn Dễ Thương; Trăm Năm Để Lại (2005)… Trần Vấn Lệ là một (trong số những) nhà thơ Việt Nam được biết đến nhiều nhất ở ngoài nước; thơ của ông có mặt trên hầu hết các báo Việt tị nạn hơn bất cứ ai. Trần quân và chúng tôi quen nhau vào đầu thập niên 1990 khi ông di chuyển đến vùng nam Vịnh và đã trở thành bạn vong niên. Ông đã khuyến khích chúng tôi trong những bước đầu, khi trở lại thi đàn, để mở rộng sự liên lạc trong thi giới nhằm phát triển phong trào thi ca Việt Nam ở hải ngoại. Trần Vấn Lệ là người có thi tài đặc biệt, có thể nói vào bậc nhất đương thời, số thơ ông làm có lẽ lên tới năm, sáu ngàn bài; về số lượng thơ, theo ước đoán riêng - có lẽ ông không thua sút lão thi sĩ Hà Thượng Nhân (nghe kể lại, có thể đã làm cả 6, bẩy ngàn bài thơ: thời sự, trào lộng… trong 10 năm cộng tác với nhật báo Tự Do, trước 1975). Nhà văn Thụy Cầm đã viết một bài về thơ Trần Vấn Lệ, trên nguyệt san Duyên, San Jose; xin bạn đọc coi thêm cho được đầy đủ. Về đời tư, có lẽ như một số người có tài cao và tánh tình lãng mạn, phóng khoáng, Trần Vấn Lệ quen biết rộng với nữ phái, nên hình như cũng gặp nhiều hệ lụy …(nhưng ở cõi tạm này, mấy ai không bị ràng buộc hay chi phối về/bởi vấn đề tình cảm?) Điểm chúng tôi còn nghĩ ngợi là khi họ Trần đã tin tưởng điều gì (là đúng), thì hình như ông khó thể thay đổi, bởi thế có một số bạn-thơ thường hiểu lầm về ông. Dù thế nào, chúng tôi vẫn quí ông, một thi tài hiếm có trong thời điểm và không gian này. Xin các bạn tìm đọc thêm thơ Trần Vấn Lệ để đánh giá sự cố gắng đổi mới (ít ra là về hình thức) của thơ ông… TRÌNH XUYÊN Họ tên: Nguyễn Ngô Riễn (Diễn) Sinh năm Nhâm Tí -1912 ở làng Trình Phố - Kiến Xương-tỉnh Thái Bình. Cháu ba đời của Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích, thủ lãnh Cần Vương, miền Tây Bắc Việt.- Cựu chuyên viên Hỏa Xa Việt Nam; hồi hưu năm 1968. Định cư ở Mỹ ngày 30/6/1990 - San Jose (Bắc California). Đã in: Thăm Cố Quận 1,2. - Hoa Bút Trình Xuyên 1, 2, 3. Góp chung: Một Phía Trời Thơ 1; Gửi Người Dưới Trăng… Nhà thơ Trình Xuyên đã thành danh từ trước năm 1975 ở miền Nam; ông tham gia nhiều thi đoàn ở Sàigòn. Từ ngày qua định cư ở Mỹ, đầu thập niên 1990, ông tiếp tục tham gia sinh hoạt với các nhóm thơ ở địa phương như Thi Đàn Lạc Việt, Cội Nguồn cho đến khi từ trần vì bệnh già vào tháng 10/1996 (thọ 85 tuổi). Sinh tiền, ông luôn luôn có mặt trong các buổi ra mắt, hội luận về văn học và hết lòng hỗ trơ, chiêu đãi các văn nghệ sĩ (đóng góp, mua sách.) Ông thường kể lại những kinh nghiệm và giai thoại trong cuộc đời học làm thơ và trước tác thơ (của mình) cho đám hậu sinh nghe, và khuyên nên trì chí luyện tập. Có lần ông nói riêng với người viết là: trong cơ sở (TĐLV) chỉ có vài người là có dáng bộ thi nhân, còn thì là...bất khả... như vậy thì đáng vui hay đáng buồn !? Nhà văn giáo sư Diệu Tần thuật lại, một lần trò chuyện riêng, nhà thơ (TX) đã nói đại ý :” làm thơ mà không lãng mạn (nhiều tình cảm) thì thơ khó hay lắm, ông ơi!” . Đối với nhà thơ, chúng tôi có khá nhiều kỷ niệm, nhưng xin để có dịp thuận tiện, chúng tôi sẽ xin trở lại. Xin các bạn tìm đọc những thi tuyển của nhà thơ để hiểu rõ tâm sự và chí hương của một bậc lão thành đáng kính mến… T R Ú C L A N G Họ Tên: Vĩnh Đỗ. Sinh 01 .01.1930 tại Huế. Thuộc hoàng phái. Tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa. - Khóa 2 SQTB Thủ Đức - Cựu Thiếu Tá (Trg CA Dalat-Tuyên Đức-1960/63) - Cựu Tù Nhân Chính Trị. Qua Mỹ, theo diện H05/352 năm 1991 - Định cư tại Oklahoma City. - Chủ Tịch Hội Cao Niên Á Châu (Oklahoma) từ 1995 đến nay. -Hoạt động: Ở Việt Nam, Đài Phát Thanh Huế (1956- 63)- Tiếng nói Công Chức. -Triển lãm tranh sơn dầu -Xuân, Sàigòn 1957/60. -Thành viên Văn đoàn Xây Dựng Huế, với Hồ Đình Phương - Lê Xuân Nhuận. -Tham gia nhóm Chân Trời Mới (Tam Ích, Vũ Hoàng Chương- Đinh Hùng… ) -Tại Mỹ: - Ban Biên Tập Tòa Soạn Oklahoma Việt Báo, và Bút Việt Dallas.-Thi hội Hoa Tiên… . -Đã xuất bản. Ở Việt Nam: Mộng Lành (1954), NXB Văn Đoàn Xây Dựng Huế. -Nghĩa Đời(1955),Sưu Tầm - NXB Văn Đoàn Xây Dựng, Huế,-Sợ Sống (1955) -Dịch Thuật-NXB Văn Đoàn Xây Dựng-Huế. - Ở Mỹ. Thơ. -Bến Nước Làng Quê- 1994; Thơ và Tình Yêu - 1996; Thơ Tình Cho Em - 2001; Mộ Trời Thơ Lãng Mạn - 2003; Thơ Đa Tình- 2004; Sea & Sky Poems- 2005;Thơ & Người Thơ 2006… Cách đây mươi năm, sau khi trở lại văn đàn, chúng tôi thỉnh thoảng được đọc thơ Trúc Lang trên một số nguyệt san tiếng Việt ở miền Trung và Nam nước Mỹ. Khi khởi sự thực hiện tuyển tập Thơ Việt Hải Ngoại, chúng tôi đã được một số thi hữu ở miền Đông, Trung, và Nam nước Mỹ vận động giúp, trong số đó, bất ngờ có bạn Trúc Lang, người mà chúng tôi chưa được diện kiến. Nhà thơ Trúc Lang đã có nhã ý gửi tặng ban biên tập 2 thi phẩm “Bến Nước Làng Quê” và “Thơ và Tình Yêu” đã in trước đây, vào năm 1994 và 1996.Tác phẩm dày trên dưới 300 trang, khổ 8.5x11, lớn gấp đôi khổ sách thường - vói hơn 200 bài thơ đủ loại, người ta có thể tưởng tượng được sức sáng tác của ông ở mức độ nào !? Bàn về thơ của ông, nhà báo Người Cầm Bút viết:” …Với bút pháp sắc bén, súc tích, ông đã lôi cuốn được người đọc...Thơ ông chứa đựng một tình yêu rộng lớn, mãnh liệt, đó là tình yêu Quê Hương,..và tình yêu nồng cháy của trái tim con người…” ..Ta vốn là con chim xanh nho nhỏ, Bé họng nhìn cất tiếng hát rong chơi.. Thèm bao la, ngạo nghễnh (?) ánh mặt trời, Ôm vũ trụ, dương oai rừng, biển cả… Ông cũng là một họa sĩ nên thơ ông đã được cấu tạo như những bức tranh hiện thực bối cảnh với những màu sắc tự nhiên: cỏ cây, hoa lá, sông núi, mây trời với hư vô huyền ảo: ...Nghe tiếng khóc thất thanh gào biển động, Những bóng hình sờ soạn thoát hoang vu ? Nhà thơ Xuân Bích góp ý:”… Những vần thơ ươm vàng dạt dào ký ức trong thi phẩm “Bến Nước Làng Quê” là cả một tâm hồn “ nơi nhà thơ tài hoa thi họa”mang bút hiệu Trúc Lang…” Ký giả Nguyễn Trọng đánh giá:” Thơ của ông rất thật, rất người, rất Huế và trong bất kỳ trạng huống nào, môi trường nào, luôn luôn man mác một tình yêu Quê Hương dân tộc pha lẫn với Mây trời Sắc nước, với Nội cỏ, dòng Sông… “ Thiển nghĩ những nhận xét trên đây đã đánh giá đúng khả năng của tác giả, và chắc hẳn nhà thơ Trúc Lang có thể được dành một vị trí tương xứng trên thi đàn Việt Nam ở ngoài nước. TRÙNG QUANG Họ Lê – Sinh năm 1911. Viểt văn, làm thơ từ 1949. Hội viên Thi Đoàn Quỳnh Giao trong nước, trước 1975. Sau 1975, định cư ở San Jose. Tiếp tục đăng thơ, truyện trên các báo Việt ngữ ở hải ngoại. Giải Nhất bài “Viết về Nước Mỹ “ năm 2003 do Nhật báo Việt Báo Nam Cali tổ chức. Tác phẩm in chưa được quảng bá...Từ trần: Năm 2013/4 ở San Jose thọ 103 tuổi. Xin đăng tải bài thơ mừng thọ nữ sĩ dể làm kỷ niệm: MỪNG BẠN 100 TUỔI Mừng thọ Nữ Sĩ Trùng Quang Xưa nay, bẩy chục được bao người? Mừng chị trăm năm tuổi, thật rồi. Chìm, nổi bao phen, thơ vẫn mướt, Khóc, cười mấy lượt, miệng còn tươi! Khỏe, đau, mạnh, yều, là công lệ, Sinh, tử, tồn, vong, phải luật trời? Bại, thắng, được, thua, chừng giả tạm, Cái mình hiện có, cái mình vui! 01/01/12 DHA #7/12 TRƯỜNG GIANG Họ tên: Đăng Văn Chiêm Sinh năm 1928 tại Bắc Việt Nam. Trước 4.1975: Cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ 1951 đến 1975. Sau 4/1975: Tù cộng sản 12 năm, 2 tháng 25 ngày. Biết làm thơ từ ngày đi tù cộng sản. Định cư ở San Jose California theo diện HO từ năm 1992. Giải nhất đồng hạng Thi Thơ Hội Tết Năm Quí Dậu 1993. Có thơ đăng trên các báo, tập san Việt ngữ ở San Jose và Texas. Góp thơ in chung trong các Tuyển tập: - Bốn Biển Thơ Chung Nối Nhịp Câu (1995); Một Phía Trời Thơ I (1995), - Xuân Thu -1998 do Thi Đàn Lạc Việt chủ trương; - Hoa Giáp Đông Anh 2000; Một Hướng Đi 2000; Một Phía Trời Thơ 5 (2002); Tuyển tập Hoa Vàng 2003; Hoa Thơ 4 Phương 2005; Thơ Văn 4 Phương 2006; Vui Tuổi Hạc 2007; Vịnh Sử Việt Nam 2007; Quê Hương Qua Thi Ca Việt Nam; 2009; Thơ Văn 4 Phương 2009; - Thơ Văn Viễn Xứ 2005… In riêng : Một Rừng Chính Khí 2000…, TUỆ ĐÀM TỬ Họ tên thường: Đinh Ngọc Thanh. Sinh ngày 11/10/1935 tại Bằng Châu, An Nhơn, Bình Định. Pháp danh: Thích Giác Lượng, tu sĩ. Năm 10 tuổi, được qui y với hòa thượng Bich Liên. 1959: Theo học rồi xuất gia theo phái Khất sĩ - hòa thượng Giác An. Năm 1970: Tham gia hoạt động trong ban Hoằng Pháp Tăng Già Miền Trung/ rồi Saigon. Sau 4/1975, bị Cộng Sản cầm tù 1978 - 80. Vượt biên qua Mỹ, định cư ở San Jose. Lập tịnh xá Pháp Duyên, xuất bản đăc san Nguồn Sống. Ngoài phật sự, có khuynh hướng hoạt động xã hội, giúp đồng hương tị nạn: 1982- 85. Định kỳ`tham gia sinh hoạt thơ văn ở địa phương – góp thơ in chung vói Thi Đàn Lac Việt, Văn Bút..; Ngoài ra, ông còn viết và in riêng một số tác phẩm về Đạo và thơ, phổ biến trong giới phật tử…có ảnh hưởng trong cộng đồng tị nạn …Để hiểu thêm về tác giả, xin tìm đọc thơ ông trong tuyển tập Một Phía Trời Thơ I do Thi Đàn Lạc Việt ấn hành năm 1995… T U Ệ N G A Họ tên: Trần Thị Nga. Sinh năm: 1936 tại Phủ Từ Sơn, Bắc Ninh; nội nhân thi sĩ (quá cố) Phương Hồ. Hoạt động: Phật tử Gia đình Minh Tâm, Chùa Quán Sứ, Hà Nội - Làm thơ từ năm 17 tuổi - Hội viên Thi Đàn Quỳnh Giao, Sàigòn; Hội viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Hiện định cư ở thành phố Beaverton, Oregon (Mỹ) cùng gia đình. Tác phẩm. Đã in: (Thơ) Suối- (Giải Văn Học Nghệ Thuật toàn quốc-1974); Suối Trầm Tư (1982); Mây Hương-1987; Chiều Phố Mây - 1991; Hoa Sương- 1994; Hoa Đài Dâng Hương - 1995; Nửa Viền Trăng- 1997; Lan Hoa Thi Tập (cùng Phương Hồ)- 1998; Suối Hoa -1999; Từ Giòng Sông Trăng - 2005; Về Bên Suối Tịnh - 2005. Cộng tác với các báo và tập san Quê Mẹ, Đất Mới, Hồn Việt, Văn, Làng Văn, Viên Giác, Nguồn… Tuệ Nga là một (trong số ít) những nhà thơ nữ được biết đến nhiều nhất (và in thơ nhiều nhất) trong làng thơ Việt (ở hải ngoại), cùng với Vi Khuê, Trần Mộng Tú, Huệ Thu…. Cách đây gần 20 năm, nhà văn Hồ Trường An đã viết về bà trong tác phẩm Giai Thọai Hồng, sau này không thiếu những cây bút có danh nói về thơ Tuệ Nga; riêng chúng tôi lại có nhiều dịp may gặp gỡ, trao đổi ý kiến (về thơ) với bà trong những sinh hoạt văn nghệ và cộng đồng. Bà là một Phật tử thuần thành, tánh tình khiêm nhu, đôn hậu, biết giao thiệp… nên được lòng nhiều người; bà lại người rất yêu thơ nên đã có mặt trên đa số các tạp chí, thi tuyển Việt Nam … ấn hành ở ngoài nước. Vài ba tháng, chúng tôi lại nhận được một số thơ của bà gửi cho để đọc và xướng họa, nếu có điều kiện. Bà làm thơ từ năm 17 tuổi, đã xuất bản hơn chục thi tập, nay đã ngoài tuần hoa giáp, nhưng vẫn tiếp tục sáng tác đều đặn. Có điều đáng ca ngợi là mặc dầu đã lớn tuổi, thơ bà vẫn giữ nguyên phong thái ban đầu: điêu luyện, vần điệu nhẹ nhàng, hoa mỹ, ý lời thanh thoát, thắm đượm đạo vị, dễ dàng gây cảm xúc cho người đọc… nhất là giới Phật tử. Đa số đề tài trong thơ Tuệ Nga nói về tình Mẹ, Trăng, Quê Hương, và Đạo (Phật)với một tinh thần thư thái như mây, như Suối…Xin quí bạn tìm đọc thêm thơ của bà được phổ biến rộng rãi trên báo chí và truyên thông Việt ngữ qua mạng lưới toàn cầu… T Y N A Họ Tên: Bùi Tuyết Nga.Quê quán: Bến Ninh Kiều, thị xã Cần Thơ,Nam Việt Nam.-Định cư: Hòa Lan (Netherlands) Âu Châu. -Nghề nghiệp: tốt nghiệp Kỹ sư ngành Process Technology. Sở thích: thơ, văn, nhạc, phim ảnh hoạt họa, du lịch, thẩm mỹ, nghiên cứu... Đặc biệt, yêu thơ văn từ nhỏ, có lẽ do ảnh hưởng của thân phụ là nhà thơ Kim Danh. - Đã góp bài trên nhiều nhật, tuần báo và tập san tại hải ngoại : Việt Nam Nguyệt San, Việt Nam Revue - Góp mặt trong Cụm Hoa Tình yêu 4, 5, 6 - Hội Thơ Tài Tử Việt Nam (Sacramento)-Mỹ; Xuân Thu tập san (Lạc Việt)… Chuyện Đời, tất cả chỉ là Duyên! Xin tạm mượn câu thơ này để nói về trường hợp hội ngộ nhà thơ TyNa. Khi được đọc những tuyển tập thơ Việt ở hải ngoại - một phần do các bạn thơ cho mượn, nhất là Cụm Hoa Tình Yêu của Hội Thơ Tài Tử Việt Nam, Sacramento ấn hành, chúng tôi thường tò mò muốn biết giới phụ nữ Việt tham gia sáng tác đã đến mức độ nào. Trong số ấy, chúng tôi để ý đến TyNa, tên nghe có vẻ nên thơ và dễ mến … nhưng rồi vì bận nhiều công việc nên rồi cũng quên đi. Tháng 6/ 2000, một buổi mở Mạng Lưới ra, chúng tôi nhận được thư của TyNa, qua sự giới thiệu của nhà thơ T.H.N. và M.T.H., ngỏ ý muốn tham gia vào tuyển tập thơ mới của Thi Đàn; lẽ tất nhiên chúng tôi hân hoan đón nhận.Rồi từ đấy qua e-mail, các nhóm thơ… chúng tôi được dịp trao đổi kinh nghiệm sáng tác với cô và đôi lần xướng họa… thật là vui. Qua những lần giao tiếp, chúng tôi nhận thấy TyNa có tài ứng đối lẹ làng, lời thơ tự nhiên, tươi trẻ, không quá lệ thuộc vào vần điệu, đặc biệt là về thơ Anh ngữ cô đã có những thành tựu đáng mừng (như Thanh Thanh Lê Xuân Nhuận, Kim Vũ, Minh Viên và Bạch Vân (quá cố). Thiển nghĩ TyNa sẽ thành công dễ dàng với hướng đi mới này. Ngòai ra, TyNa còn có một giọng hát truyền cảm nhẹ nhàng, lôi cuốn…không kém mấy ca sĩ chuyên nghiệp, nếu tiếp tục khổ luyện...Gần đây, TyNa có ý hướng về Đạo học, đã phóng dịch một số thơ Thiền rất thoáng và gợi cảm. Xin các bạn tìm đọc một số bài thơ mới và chuyển ngữ của tác giả TyNa trên các trang Mạng và thi tập Cụm Hoa Tình Yêu, thường rất dầy và lôi cuốn…. V  N N Ư Ơ N G Họ tên :Trần Thị Vân Chung. Sinh năm 1919 tại Thanh Hóa, cũng là nguyên quán, trong một gia đình trung lưu. Thủa nhỏ, học trường tỉnh, lớn lên lập gia đình với luật sư Lê Ngọc Chấn. Sau nhiều biến cố của đất nước, bà di cư sang Pháp cuối thập niên 1980. Thơ bà không nhiều , nhưng chững chạc, mực thước, điêu luyện… chứa chan tình cảm đôn hậu, đọc dễ cảm xúc. Tác phẩm in: Tơ Sương (Thơ) - 1965; Con Đường Lý Tưởng (Thơ Đạo)- 1990; Nhớ Một Người Đi-Hồi Ký- 1996; Mây Viễn Phố- Thớ- 1996; Trăng Viễn Phương -Thơ- 2001; Thoảng Chút Hương Chiều (đoản văn)… V I K H U Ê Nếu ông Hà Thượng Nhân là người được đa số mến mộ bên nam giới thì bà Vi Khuê có thể coi như (một trong những) nhà thơ nữ được nhắc nhở đến nhiều nhất ở hải ngoại. Họ tên: Trần Trinh Thuận, người Huế (Thừa Thiên), sinh khoảng đầu thập niên 1930, nội tướng nhà báo Chử Bá Anh - khởi sự hoạt động văn học từ thập niên 1950, khí còn giúp việc ở đài Phát Thanh Huế. Sau đó, tốt nghiệp cử nhân văn khoa, bà thành lập tư thục Trung học Văn Khoa Dalạt và ấn hành thi tập Giọt Lệ. Sau biến cố 30/4/1975, bà định cư ở Virginia (Mỹ) cùng gia đình và tiếp tục sinh họat thơ văn, báo chí… cộng tác với các báo và tập san có tiếng ở hải ngoại như Văn, Phụ Nữ Diễn Đàn… từ 1982, dưới nhiều bút hiệu khác nhau, như VK, Đào Thị Khánh, Nguyễn Thị Bình Thường.. Tác phẩm in: - Giọt Lệ (Thơ- 1971); Cát Vàng (Thơ-1985); Ngựa Hồng Trên Đồi Cỏ (1986 - Văn); Tặng Phẩm Tình Yêu (1991- Thơ); Những Ngày ở Virginia (1991-Văn); Vẫn Chờ Xe Thổ Mộ (1993- Văn); Hoa Bướm Vườn Thơ Tôi (1994-Thơ); Thơ Trong Mưa Và Hoa (Thơ tam ngữ-2001) - Không kể những tác phẩm đã in chung (15). Hiện định cư ở: 9432 Wallingford Dr., Burke. VA 22015 (Mỹ). Thơ Vi Khuê rất vững vàng, điêu luyện, ngôn từ hoa mỹ và chọn lọc, đề cập tới nhiều khía cạnh của cuộc sống, như tình yêu, quê hương đất nước, triết lý, thế sự, nhân sinh… như nhiều cây bút và độc giả đã nhận xét. Thể thơ hay dùng: lục bát, thất ngôn, tứ tuyệt trường thiên, tám chữ, thơ tự do..; có khi có nhưng hình ảnh, ý mới lạ làm thơ tình Vi Khuê thêm phần độc đáo. Ở những bài thơ Đường luật chặt chẽ về vần, đối...Vi Khuê vẫn tỏ ra thành công; hơn thế nữa, bà còn muốn tiến xa hơn …bằng những kỹ xảo cách tân, làm mới những dòng thơ cổ điển ấy.Xin quí bạn thưởng thức một số bài của tác giả, được bạn CNA tuyển dịch qua Anh ngữ, trên các trang Mạng và báo chí, nguyệt san Việt ngữ ở hải ngoại… VIÊT BĂNG Họ tên: Lê Xuân Tiếu. Sinh năm 1937 tại thị xã Thái Bình. Cựu học sinh Chu Văn An - 1955; Cử nhân Văn khoa, Sàigòn - 1967; BA Liberal Studies - San Jose State University- 1997. Cựu giáo sư Trung học (Triết và Anh Văn )- Sàigòn. Thơ in: Ánh Mắt Tình Nhân (2001); Những Mảnh Tình Trong Khuôn Viên Đại Học - 2003; Hình Ảnh Trôi Đi – 2005. Sẽ In: Tuyển tập Thơ Việt Bằng; Những Kỷ Niệm Không Thể Quên Chưa kể sáng tác in chung: Vườn Thơ Hải Ngoại; Nhà Thơ Hải Ngoại, Một Phía Trời Thơ 5.Hiện định cư tại San Jose, California. Thành viên của Xuân thu-Lacviet Groups từ 2002.. ` Nhà thơ Việt Bằng đến vỏi chúng tôi qua Thi Đàn Lạc Việt, cách đây khoảng 15 năm. Cảm tưởng lúc đầu của chúng tôi thì đây là một nhà giáo, ăn nói nhỏ nhẻ, dễ mến và có nhiều hiểu biết và tinh thần hoạt động hăng say về bộ môn thơ. Sau đó, chúng tôi có dịp cùng đứng ra tổ chức phần ra mắt thi tập thứ hai cuả ông, “Những Mối Tình Trong Khuôn Viên Đại Học” trong buổi sinh hoạt Văn học của liên cơ sở Xuân Thu - Lạc Việt vào mùa Xuân năm 2003. Trước hết, ông là một nhà thơ tình cảm, nhưng không hẳn chỉ nói đến tình yêu nam nữ, mà còn ghi lại những nét sâu đậm đối với tình yêu gia đình, tổ quốc… vì xưa nay tình yêu vốn là đề tài muôn thủa của thi ca. Điểm dễ thấy là lời thơ của ông dung dị, nhưng nhuần nhuyễn, không quá làm dáng, dễ hiểu, và có pha trộn chút triết lý. Cái đó hẳn không lạ, vì ông vốn là một giáo sư Triết, Ban Tú Tài khi còn ở trong nước, trước năm 1975.. Thơ ông cũng chuyên chở một số tư tưởng của nhiều tác giả phương Tây, chứng tỏ tác giả là người biết hòa hợp với những cái mới. Về phần hình thức, Việt Bằng chúng tỏ rất quen với các kỹ thuật điệp ngữ, ẩn dụ và nhân cách hóa, mà người ta thấy ông sử dụng trong nhiều trường hợp một cách khéo léo. Hẳn ông thích làm thơ theo thể tự do,- mà phần lớn khá thánh công- mặc dầu trong nhiều bài, chúng tôi thấy có những câu làm theo niêm luật thật đắc thể. Hiện nay, ông đang tập trung thì giờ viết một số truyện/ký, mà mới đọc sơ qua vài trang bản thảo , chúng tôi nhận thấy chúng có sức hấp dẫn nhẹ nhàng, duyên dáng... Xin bạn đọc thưởng một số bài thơ tiêu biểu của tác giả trên website: Vietbang@yahoo. com. … VIỆT THAO Họ Tên: Ðào Ðức Chương.Tuổi Ðinh Sửu-Nguyên quán: Làng Vinh Thạnh-Tỉnh Bình Ðịnh. -Trước 1975: Dạy học và Giám Học.-Ðịnh cư: Tại San Jose, California, Mỹ.- 1994: Giải Nhì về Thơ Hội Tết Giáp Tuất-Bắc California- Cộng tác với: Thế Kỷ 21, Văn Uyển, Việt Nam Nhật Báo, các Ðặc San Tây Sơn, Quang Trung, Cường Ðể, Lại Giang…-Biên tập viên Làng Văn và Nguồn Sống-Ðã xuất bản: - (Viết chung với Mộng Bình Sơn) Nhà Văn phê bình- Thi Ca Việt Nam thời Cần Vương (1885-1900) - Góp in các Tuyển Tập Thơ Văn:-Tiếng Thơ Hải Ngoại;-Bốn Biển Thơ Chung nối nhịp cầu; Xuân Thu- Bút Hoa… Chúng tôi gặp nhà giáo Việt Thao qua cuộc Thi Thơ Liên Xứ, kỳ 1, năm 1994 do Thi Ðàn Lạc Việt tổ chức tại Bắc California (Mỹ). Ngoài tài làm thơ, Việt Thao còn viết văn và đặc biệt là môn biên khảo, cộng tác thường xuyên với các nguyệt san Làng Văn, Thế Kỷ... Quá bận rộn với nhiều dự án, ông chưa có ý định sưu tập số thơ đã sáng tác để xuất bản thành sách trong tương lai gần. Ông vốn là giáo chức, nên đọc thơ ông, người ta dễ cảm thông với một hồn thơ trong sáng, hài hòa qua những vần điệu nhẹ nhàng, thanh thoát, kỹ thuật vững vàng.. .Trong tuyển tập “Bốn Biển Thơ ChungNối Nhịp Cầu”, người đọc rất thích bài thơ “Với San Jose đã ba mùa”của ông … VINH HỒ Họ tên: Hồ Văn Thinh. Sinh năm: 1948 tại Khánh Hòa, Trung Việt Nam. Trước 1975: Nhập ngũ tại Phước Tuy (1968-75). Sau 1975: Tù cải tạo 1975 - 80. Bút hiệu khác: Phạm Ninh Hòa. -Đến Mỹ: 1995 (HO-31); định cư tại Orlando- Florida. Hoạt động văn nghệ. Trước 1975: Thơ, Truyện đăng trên Dân Quyền -Tại hải ngoại: Thơ đăng trên Văn, Gia Đình, Rạng Đông, Phương Đông, Nguồn… -Góp incác Tuyển tập VAALA/ Florida, 1998; Tiếng Thơ Hải Ngoại 2, 1998; - Cụm Hoa Tình Yêu 5, 1999- 6/2000 và Việt Anh Pháp/2000; Thơ Việt Hải Ngoại (2001)-Thi Đàn Lạc Việt… -Hội Viên VAALA/ Chi Hội Florida. -Đã in: - Ngàn Hương, Thơ, 1994 (chung vói Điềm Ca) -Thơ Vinh Hồ-1999 (VAALA/ Florida); Bên Này Biển Muộn (2005)… Vinh Hồ đến với chúng tôi dưới một bút danh khác (Phạm Ninh Hòa) trong cuộc Thi Thơ Liên xứ, kỳ 2 năm 1996, do Thi Đàn Lạc Việt tổ chức, tiếp theo cuộc thi kỳ 1,1994 (khá thành công). Năm ấy, Vinh Hồ được giải thưởng đồng hạng (không có giải nhất); điều chúng tôi đặc biệt lưu ý là anh có vẻ chuyên chú về thơ Đường Luật, một thể thơ rất khó vận dụng, nhất là khi tuổi còn trẻ. Năm 1999, Vinh Hồ ra mắt thi tập đầu tiên, “Thơ Vinh Hồ” ở Mỹ, được các giới văn học gần xa đáp ứng nồng nhiệt. Du Tử Lê viết như sau:”…Tôi rất ngạc nhiên khi thấy đa số thơ của (Vinh) Hồ, lại là thơ Đường luật. Dù cho Vinh Hồ dùng chiếc bình cổ để chứa đựng những lượng rượu mới. Sự mới mẻ thấy rõ, từ cách dùng chữ, cho tới hình ảnh (và) suy tưởng. Thí dụ: Bụng mang gồng gánh dòng di tản, Trẻ dại đành cam phận nhọc nhằn. Hoặc: Hỏi bao ngôi mộ không người nhận, Và những thương binh chẳng kẻ thăm? Họ Lê thú nhận “ tôi rất thích chữ (và, hình ảnh) do hai chữ lu lơ gợi lên trong mấy câu:..”Khuya lắm, cũng không biết mấy giờ?Sạp tre, chòi rạ, ngọn lu lơ Một người chẳng ngủ hay tằng hắng…” Lão thi sĩ Thừa Phong nhận định:”…Những người làm thơ trong lứa tuổi trên dưới 50, như thi sĩ Vinh Hồ, đã mạo hiểm, mạnh dạn tiến vào ngõ chật hẹp đó, là chuyện làm cho tôi không khỏi ngạc nhiên. Chẳng những thế,...Vinh Hồ còn mang vào thơ Đường luật một luồng không khí mới, biến đổi tính chất trầm mặc ngàn xưa của một thể thơ đã ngự trị trên thi đàn từ năm 618 …trên đất nước Trung Hoa..” Thêm vào những ý kiến trên, chúng tôi nghĩ là:”Vinh Hồ có thể đã thành công trong mục đích cách tân hóa, nếu có, thơ luật Đường, qua lối diễn tả và từ ngữ khá mới mẻ.” Tuy nhiên, ngoài thơ luật Đường, Vinh Hồ cũng có những thành tựu đáng kể trong các thể thơ khác, tạo cho mình một phong cách riêng. VI VI & DIỄM CHÂU Họ Tên: Võ Hùng Kiệt - Sinh ngày 14-7-1945 tại Vĩnh Long, Việt Nam. Cựu tu sĩ Sư huynh Dòng Lasan 1963. Tốt nghiệp QGCĐMT Sàigòn năm 1968. Nhập ngũ năm 1968 phục vụ tại P7/BTTM. Vượt biển 1981 đến Montréal ngày 13-05-1982. Qua Mỹ năm 1995. Hiện cư ngụ tại Highland, San Bernardino, California.Ngoài việc vẽ tranh, khắc tượng... ViVi hàng ngày thích nghe nhạc cổ điển êm dịu, đọc thơ.... ViVi và chúng tôi chưa được diện kiến nhưng vẫn ngưỡng mộ tài danh (đa dạng) của anh, qua những tuyển tập Phụ Nữ Thời Nay do nhà văn, ca sĩ Diễm Châu người bạn đường - thực hiện, chủ trương, - người được coi là dân ca chi bảo ở vùng thung lũng Hoa Vàng hơn chục năm trước đây. Ca sĩ Diễm Châu họ tên Nguyễn Thanh Hương, sinh ở Huế, với bút hiệu Tôn nữ Quỳnh Giao, đã ấn hành 4 (bốn) tác phẩm ở hải ngoai từ năm 1988 đến 1995, như: Đường Tình Em Đi, Câu Chuyện Một Tượng Vàng, Đời Ca Sĩ và Tình Người Nữ Tu…nay lại thêm nghề cầm cọ (hội họa ) . Quí bạn sẽ có nhiều dịp thưởng thức nghệ thuật dịch thơ (cũng như ngâm thơ) của ViVi Võ Hùng Kiệt và nhà văn, ca, họa sĩ Diễm Châu… VÕ THẠNH VĂN Sanh năm 1949 tại Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. SVTBSQ K/1/70/TBB/Thủ Đức; Sĩ quan Phi công Chinook CH-47; -Đại học Luật khoa Huế 1972-1975; ĐH Hungtinton, Montgomery, Alabama, 75/76; ĐH UTA Texas, 1976-79 . Định cư ở Mỹ (Alabama; Florida; Georgia; Texas, California. - Hiện cư trú: Phù Hư am, Bắc California. Làm thơ: từ 1964; Nhiếp ảnh từ 1975; Viết văn: 1982; Viết báo, làm báo: 1985-88. Soạn tự điển: 1995. Hiện làm cho Nhật báo Investment Business Daily (IBD); Marin Independent Journal (IJ) Hoạt động văn nghệ: Thư ký Ban Chấp Hành Văn Bút Việt Nam Tây Bắc Mỹ (2006)… Bạn Võ Thạnh Văn và chúng tôi chỉ mới gặp nhau một thời gian tương đối ngắn, nhưng đã lưu lại cho nhau nhiều cảm nghĩ tốt đẹp và triển vọng trong sự cộng tác lâu dài về hoạt động văn hóa. Có thể nói ông còn trẻ tuổi nhưng đã chín chắn trong xử thế, với thái độ khiêm cung, trì trọng...dễ dàng thu phục nhân tâm người đối tác. Đọc thơ ông, chúng tôi không ngạc nhiên lắm trước những vần điệu vững vàng, lời chau chuốt, đối ngẫu chỉnh bị... hướng về truyền thống ngàn đời của dân tộc, quê hương. Đúng chăng, ” Văn là Người! ”? Xin quí bạn tịm đọc một số thơ mới của ông – trên Mạng - để có cái nhìn toàn bộ về tác giả Võ Thạnh Văn. VŨ GIA SẮC Họ tên: Vũ Đình Giá. Sinh năm 1937 tại Thăng Bình, Quảng Nam.Bút hiệu khác: Bạch Tâm - Nguyễn Thị Bạch Tâm. Nghề nghiệp: Trước 1975, giáo chức, công chức, sĩ quan Cảnh Sát Quốc gia.Định cư: 1990 – San Jose, California - Mỹ. Hoạt động: làm thơ, viết văn từ thủa học trò; Có bài đăng trên nhiều báo, tập san trong và ngoài nước. Thơ in chung cùng nhiều tác giả Một Phía Trời Thơ 1-2-3-4-5; Tiếng Thơ Hải Ngoại 1, 2; Xuân Thu, Bút Hoa 1, 2, 3; Bốn Biển Thơ Chung Nối Nhịp Cầu; Viễn Xứ, Thi Văn Viễn Xứ 1, 2; Đặc san Cảnh Sát Quốc gia; Quảng Nam, Đà Nẵng…Đã là: Phó Chủ tịch I, Trung tâm Văn Bút Việt Nam/Tây Bắc Mỹ. Vũ quân đối với chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm. Mùa xuân 1992, khi Thi Đàn LạcViệt khởi sự hoạt động thơ văn bằng các hội thơ định kỳ, ông đã đến tiếp tay… cùng một số bạn HO khác như Thượng Quân Lê Văn Sẵc, Hoài Việt, Chu Toàn Chung, Cung Diễm Hoàng Kim Dũng, Khương Hạ, Khánh Hà, Thanh Hương, Hoàng Ngọc Thúy…Từ đó, trải qua một thời gian khá dài, ông vẫn kiên trì hỗ trợ chúng tôi dưới nhiều hình thức khác nhau, dù đôi khi cơ sở gặp khó khăn, thách đố… Vũ Gia Sắc dáng người nhỏ, trung bình, ăn nói lễ độ… lại có nhiều tài mọn… như chụp hình, quay video …nên được bằng hữu đánh giá cao; lắm khi còn mất thì giờ và tiền bạc riêng - chưa kể công sức - giúp đỡ bạn bè. Đấy có lẽ là (một trong những) lý do khiến thi phẩm riêng của ông chưa có điều kiện chào đời. Vũ quân còn là người ham học hỏi nên đã thụ nhận được khá nhiều kiến thức và kinh nghiệm quí báu từ một số cao túc trong làng thơ như Trình Xuyên...Giải thưởng Khuyến Khích trong kỳ thi Thơ Liên xứ 2 do Thi Đàn Lạc Việt tổ chức năm 1996… Trong trao đổi tiếp họa với các bạn thơ, ông ứng phó khá nhanh; thơ ông nói chung niêm luật vững vàng, chững chạc… có nhiều tư tưởng độc đáo, lãng mạn... nhưng vẫn hướng về đạo lý, xây dựng…Mong sẽ được đọc tác phẩm đầu của ông trong tương lai gần. VŨ HOÀI MỸ Họ Tên : Vũ Hoài Mỹ. Sinh quán Bạch Mai, Hà Nội. 1972-1975 Tốt nghiệp Đại Học Quản Tri Kinh Doanh, Bronx, NY. 1975-1779 Kiểm sát viên Kế Toán, thuế vụ (CPA) Seligman & Latz, Inc., New York, NY.1980- 2004. Cán sư xã hội, phục vụ tại Sở Xã Hội Orange County. Hiện dịnh cư tai Quận Cam, California. Đã in: Thi Phẩm ”Vạn Thủa Còn Yêu", 2003 Vũ Hoài Mỹ mới xuất hiện trên thi đàn Việt hải ngoại gần đây nhưng đã được các giới ngưỡng mộ, không chỉ vì nghệ thuật, mà phần chính vì sự khôn ngoan trong giao tế và tinh thần phục vụ cộng đồng khá cao. Bà là điều hợp viên cho chương trình thực hiện Tuyển tập Văn học Thời Nay (Nam California), hiện nay đã ra đến số 6 (6 tháng một lần). Đây cũng là diều đáng mừng cho phong trào hoạt động và các cơ sở văn học Việt lưu vong, đang trên đà suy thoái trầm trọng. Xin quí bạn thường thức thơ của Vũ Hoài Mỹ trên các trang Mang.Việt ngữ toàn cầu… XUÂN BÍCH Sinh khoảng 1937 (thay vì 1947) như trong tài liệu phổ biến) tại Bắc Việt Nam và lớn lên ở miền Nam Việt Nam. Cử Nhân Triết Học - Đại Học Văn Khoa, Sàigòn-Dậy học rồi động viên vô quân đội. Định cư ở Mỹ theo diện tỵ nạn cuối năm 1990. Tiếp tục dậy học. Hiện định cư ở Oklahoma (Mỹ). Cộng tác với trên 20 tuần báo và tạp chí Việt Nam ở Mỹ, Canada, Úc…với bút hiệu Xuân Bích (thơ) và Trường Thy (văn) -Tác phẩm in.-Lời trần tình (Thơ)-Khi mùa dứt chiến chinh (Truyện ngắn) -Đối diện với vi trùng (hồi ký) - Điệu buồn xanh (Thơ) - Lời Ca Chiều (thơ); Kể Với Hoàng Hôn - Thơ - 2004… Bàn về Xuân Bích, nhà thơ Hà Thượng Nhân viết:” Và tôi khám phá ra rằng:” Xuân Bích say mê thơ hơn bất cứ thứ gì khác trên cuộc đời này...anh là người của thơ, của Tình Yêu. Thơ anh cũng giản dị và hiền lành như con người anh. Nhiều câu lục bát đọc lên cứ tưởng là ca dao…” Hà tiên sinh thêm ở đoạn sau:”… đọc kỹ mới thấy ngôn ngữ của Xuân Bích không còn là ngôn ngữ của lớp người làm thơ như chúng tôi ngày trước: Buồn vui, vẫn chuyện chúng mình Vẫn cùm trong mắt một hình dung xa… Chữ Cùm là chữ của bây giờ...Thời đại của Xuân Bích có những chữ mới, những ngôn ngữ mới.. . ..Những nhớ nhung gầy trong trong tiếng mưa … Đêm dâng men dậy thìXanh màu da thế kỷ … Hà thi sĩ nhận định:”… Mỗi ngày Xuân Bích mỗi củng cố cho mình một thi phong đặc biệt. ..Người làm thơ mà đã có một dấu ấn riêng như thế là đã có nhiều lắm.!” | |