Số ra ngày 01/04/2006: Đông Xuan 2006 |
thơ | |
Trích Thơ Hà Bỉnh Trung | |
Riêng về phần thơ, người ta nhận thấy, càng về sau thơ ông-vốn đã vững vàng, súc tích- càng đổi mới, cả về ý từ lẫn thể điệu. Trong tập Dấu Chân Viễn Khách, chúng tôi thích bài mở đầu:” Cái hay, cái lạ..”: Càng đi về phương Tây Càng thấy nhiều khác lạ Từ cảnh rừng cây hoa lá Suối đổ, thác reo Ðến đàn nai quen thuộc vượt qua đèo Người cũng lạ: khi mắt xanh màu biển, Khi lá non, khi hạt rẻ nhuộm màu.. Tóc vàng tơ, đỏ lửa, hừng nâu Tình cũng lạ, khi môi hôn vào miệng Trước mặt mọi người mà không e thẹn. Thấy đời ngắn mong manh Ai cũng tranh đua, hưởng thụ Mọi nguồn lạc thú Rồi chết cũng đành Tìm vui trong cuộc sống Yêu nhau tình nóng bỏng Cho trọn vẹn ngày xanh. Bấy lâu trong cuộc hành trình Tìm xem xứ lạ khác mình ra sao? Người ta dù ở phương nào Cũng là yêu, cũng khát khao tình đời. Khi vui, cũng một tiếng cười, Khi buồn, lại cũng sụt sùi lệ sa! Ðể hiểu thêm thơ ông, xin mời quí bạn đọc một số trích trong các thi phẩm đã xuất bản. NẮNG HÈ Trời bữa nay thực nắng Gió lùa mát lá xanh Lơ thơ vài đốm trắng Mây nhẹ cánh trôi nhanh. Nắng ở đây dìu dịu Gió qua thực hiền lành. Không như nắng quê cũ Thiêu đốt mái nhà tranh. Nhựa đường chưa nóng chẩy Chưa phải nắng Ðô Thành Vĩ tuyến gần địa cực Làm sao mà nắng hanh? Nắng xưa bừng lửa lựu Con cuốc gọi bạn tình. Ai đất này gọi bạn, Khi trời biếc lặng thinh? Virginia 90 SAN-HÔ-DÊ* Tôi không biết gọi đỉnh cao kia là núi Hay là non? Một thứ đồi hoang cỏ vàng trơ trụi, Vài cụm cây xanh nghèo đúng chon von. Mưa rất hiếm, nắng nhiều vàng nnư bụi, Như mờ sương nhẹ tỏa khắp thị thành, Dãy núi dài sừng sững dựa mây xanh Như thành quách từ thủa nào còn lại. Thung lũng hoa vàng ư? Người tứ-phương kéo đến Ðất lành chim đậu Lẽ thường tình của luật định cư. Chỉ nhìn dãy núi dài trơ trụi, Là biết đấy San-Hô-Dê Dưới: phẳng lặng yên bình trong nắng bụi, Trên: trời cao mây lững thững đi về. Hè 92 * San Jose, phát âm theo tiếng Espagnol DỊCH THỦY HÀN Dịch Thủy nào đâu? Dịch Thủy hàn! Có gì trống vắng đất Trường-An? Còn như vẳng tiếng ai ca hát: Nhất khứ, Kinh Kha bất phục hoàn! Ba ngàn tân khách, Trời ơi! Trời! Ra bến sông đưa tiễn một người. Ta thấy ngàn xưa bừng thức dậy, Ðất Tần muôn vạn ánh sao rơi! Tiếng gió đâu như tiếng gọi hồn Khơi ngàn uất hận dưới mồ chôn. Ba ngàn dòng lệ tràn sông Dịch Nay đã khô rồi trước địa môn. Cao Tiệm Ly, hề, Cao tiệm Ly! Ðâu còn tiếng trúc đượm sầu bi? Ðâu còn nhạc điệu trong hơi gió? Yên-địa ai còn gẩy trúc ti? “Phong tiêu tiêu hề, Dịch Thủy hàn!” Sông nào nghe gió lạnh than van? Ai nào còn nhớ tay thần kiếm? Nhất khứ, Kinh Kha bất phục hoàn. Ði tìm dĩ-vãng, nơi hùng khí Lắng đọng không gian giữa cố-đô. Gió lạnh đâu còn hơi ngạ-quỷ Mà sao ớn lạnh khắp sông hồ? Trường An 7/1993 ÐỂ ANH MUA GẠCH Trưa nay ghé lại Bát Tràng, Khói xa lò gốm nối hàng lên cao.. Tìm đâu chốn cũ thủa nào Ðể ta mua gạch xây ao nửa vòng. Xây hồ bán nguyệt không xong, Gạch không còn đủ, lò nung thay rồi! Ðã xa, xa lắm người ơi! Tình ta vẫn đậm như thời xa xưa. Bát tràng ghé lại ban trưa, Khói xa lò gốm sợi thưa ánh vàng. Muốn xây hồ rửa chân nàng, Nàng đâu còn ở thôn làng mà xây ? Bát Tràng 1977 |
|