Số ra ngày 01/01/2008: Đông Xuân |
trình bày/góp ý | |
Sự Tan Rã của Ki-tô-giáo | |
Tiếng Loa Cảnh Báo - Điện Thư Số 7 (tháng 6/ 2006) Sự tan rã của Ki-tô-giáo theo Sấm Kinh Thánh (Phần 1) 1. Sự tan rã của Ki-tô-giáo theo tiên tri Đa-vít. 2. Theo tiên tri Isaia.- Do-thái-giáo bị bãi bỏ. 3. Theo tiên tri Giô-en. 4. Sự tan rã của Giáo Hội Công Giáo La-mã.-Thiên Chúa công khai giục bỏ Vatican.- Da Vinci Code và Thánh Giá cù quăm. Dẫn nhập. Chúa Giê-su đã phán: “Này Ta ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mat-thêu 28: 20). Tuy nhiên, chừng một ngàn năm trước Chúa Giê-su, tiên tri Đa-vít đã tiên báo rằng có ngày Ki-tô-giáo sẽ tan rã. Sau đó, các tiên tri Isaia và Giê-rê-mi-a cũng tiên báo như vậy. Rồi các tiên tri Ê-giê-ki-en, Đa-ni-en, Giô-en, Thánh Gio-an cùng rất nhiều tiên tri khác cũng tiên báo như thế. Ngay chính Chúa Giê-su cũng tiên báo có ngày Giáo Hội của Chúa sẽ tan tành đổ nát. Phải chăng có sự mâu thuẫn giữa lời hứa của Chúa và các sấm ngôn trong Kinh Thánh? Câu giải đáp có phần phức tạp sẽ được trình bày trong mục Kết Luận cuối Phần 2. I. Sự tan rã của Ki-tô-giáo theo tiên tri Đa-vít Sách Thánh Vịnh (The Psalms) xưa nay chưa hề được liệt kê là một Sách Tiên Tri. Tôi là người đầu tiên trong lịch sử đã tìm ra Sách Sấm Kỳ này nhờ tìm ra được một mật mã trong một câu ở Thánh Vịnh 120 “Khốn khổ cho tôi vì tôi phải cư ngụ trong vùng Mê-shék” (TV 120: 5). Lần mò theo Sấm Kinh Thánh, chúng ta biết được rằng Mê-shék là một vùng nằm trong lãnh thổ nước Nga, “ở miền cực Bắc” (Ê-giê-ki-en 38: 2-3,6,15). Về phương diện lịch sử, vua Đa-vít chưa hề phải sống trong vùng này. Bởi thế, lời than van của ông chỉ nhằm tiên báo những nỗi thống khổ của tín đồ Đạo Chúa phải sống dưới ách thống trị của Cộng Sản trong thời thế mạt này (Ê-giê-ki-en 38: 8,16). Và vì thế, Sách Thánh Vịnh đã trở thành một Sách Sấm Ký y hệt như Sách Gióp và Sách Ai-ca của tiên tri Giê-rê-mi-a. Tất cả ba sách này đều là sách sấm ký chứa đựng hàng trăm bài sấm về Cộng Sản, nhất là về những nỗi thống khổ của các tín đồ Đạo Chúa sẽ phải sống dưới ách cai trị tàn bạo của Cộng Sản. Xét theo chiều dài của cuốn sách, Thánh Vịnh là Sách Tiên Tri dài nhất trong Sấm Kinh Thánh. Có hàng trăm bài sấm về các biến cố lịch sử được tiên báo trong sách này, trong đó có bài sấm về sự tan rã của Ki-tô-giáo là chủ đề của Điện Thư này. Vẫn theo định luật căn bản mà tôi đã trình bày trong Điện Thư Số 1, chúng ta sẽ thấy rẳng các sấm ngôn về sự tan rã của Ki-tô-giáo đã được để rải rác trong các Thánh Vịnh 55, 74, 79 và nhất là TV 89 là TV quan trọng nhất nhưng đồng thời cũng huyền bí nhất mà tôi xin tóm lược như sau đây. Chính Thiên Chúa sẽ tiêu diệt Ki-tô-giáo Chính Thiên Chúa sẽ tiêu diệt Ki-tô-giáo? Điều đó nghe kỳ lạ và khó tin. Tuy nhiên, ta hãy đi vào chi tiết của sấm ngôn huyền bí này trong Thánh Vịnh 89. Chủ đề của TV khá dài này (52 câu) là sự tan rã của Giáo Hội của Chúa Giê-su được mô tả dưới danh xưng huyền bí là DAVID. Sau đây là tóm lược những điểm chính: Nhận diện danh xưng Đa-vit huyền bí 1). Thiên Chúa thề và hứa sẽ xây dựng Vương Quốc của Đa-vít cho đến muôn đời, triều đại của Đa-vít sẽ tồn tại vĩnh viễn, con cháu dòng dõi của Đa-vít sẽ kéo dài vô tận (TV 89: 4,29,36). 2). Thiên Chúa gọi Đa-vít là “Con của Ta, Trưởng Nam của Ta” (TV 89: 26-27). 3). Thiên Chúa phán rằng Chúa sẽ dùng dầu thánh của Chúa để tấn phong cho Đa-vít làm Vua trên hết các vua của nhân loại (TV 89: 20,27). 4). Thiên Chúa phán rằng Chúa sẽ trao cho Đa-vít quyền chế ngự sông ngòi và biển cả (TV 89: 25). Trên thực tế, chúng ta thấy vua Đa-vít của Do-thái đã chết trước đây ba ngàn năm. Chắc chắn ông không phải là “Vua trên hết các vua của nhân loại”. Hiển nhiên ông cũng không phải là “Con Thiên Chúa, Trưởng Nam của Thiên Chúa”. Triều đại của ông cũng chẳng kéo dài vĩnh viễn, vì đã chấm dứt ba mươi thế kỷ trước rồi. Bởi thế, danh xưng DAVID trong các sấm ngôn trên đây ám chỉ Chúa Giê-su Ki-tô, vì chỉ một mình Chúa Giê-su đáng mang tước hiệu “Con Thiên Chúa” (Mat-thêu 3: 17). Vua Đa-vít không hề có quyền năng chế ngự sông ngòi và biển cả. Chỉ một mình Chúa Giê-su có quyền năng này (Mat-thêu 8: 26). Thiên Chúa đe trừng phạt Mặc dầu Thiên Chúa đã thề và hứa sẽ giúp Con Trưởng Nam của mình để xây dựng nên Giáo Hội của Con Mình (là Ki-tô-giáo) để Giáo Hội đó tồn tại đến muôn đời, nhưng Thiên Chúa cũng đe rằng nếu các tín đồ của Ki-tô-giáo từ bỏ lề luật của Chúa, không sống theo các giới răn của Chúa, thì Chúa sẽ dùng một chiếc roi để trừng phạt (TV 89: 30-37). Trong Điện Thư Số 6, tôi đã trình bày sấm Kinh Thánh về Chiếc Roi này. Ki-tô-giáo sẽ bị Chúa đập tan tành Thế rồi, chúng ta hãy đọc bản tóm lược các lời than van sau đây của tiên tri Đa-vít, không phải “Giê-su Đa-vít”, về tình trạng tan rã của Giáo Hội của Chúa Ki-tô: “Lạy Chúa, cơn thịnh nộ của Chúa bừng bừng như lửa còn kéo dài cho đến bao giờ? Chúa đã giục bỏ và khước từ Đấng đã được Chúa xức dầu thánh. Chúa đã dẹp bỏ Lời Giao Ước Chúa đã ký kết với Đầy Tớ của Chúa. Chúa đã quăng vương miện của Ngài xuống đất và chà đạp dưới chân. Chúa đã tăng cường sức mạnh cho quân thù của Ngài. Chúa đã làm cho quân thù của Ngài reo mừng. Chúa đã dập tắt sự vinh quang của Ngài. Chúa đã lật đổ ngai vàng của Ngài úp xuống đất. Lòng nhân từ khi xưa của Chúa nay ở đâu, lạy Chúa! (Thánh Vịnh 89: 38-51). Tôi, kẻ viết Điện Thư này, đã thực sự không cầm được nước mắt khi viết nhũng dòng chữ này. “Chúa đã quăng vương miện của Ngài xuống đất và chà đạp dưới chân” (câu 39). “Chúa đã lật đổ ngai vàng của Ngài úp xuống đất” (câu 44). Đó là những sấm ngôn mô tả sự đổ nát tan tành của Ki-tô-giáo. Sau đây lại thêm những lời than van não nề bi thảm khác: Quân thù sẽ tàn phá Ki-tô-giáo “Lạy Thiên Chúa, vì sao mà Chúa đã từ bỏ chúng con lâu như thế? Vì sao mà Chúa đã nổi cơn thịnh nộ bừng bừng đối với đoàn chiên của Chúa? Xin Chúa hãy quá bộ bước tới nhìn xem cảnh điêu tàn muôn đời hoang phế. Quân thù của Chúa đã tàn phá tất cả mọi sự trong cung thánh của Chúa. Chúng đang tung hoành gào thét trong thánh điện của Chúa. Chúng nổi lửa thiêu huỷ cung thánh của Chúa. Chúng chà đạp nơi thánh mang danh Chúa và chúng tàn phá bình địa. Chúng thiêu huỷ tất cả mọi thánh đường của Chúa trong xứ” (Thánh Vịnh 74: 1-10). Quân thù là quân Cộng Sản “Quân thù của Chúa đã tàn phá mọi sự trong cung thánh của Chúa” (TV 74: 3). Ai là quân thù của Chúa trong bài sấm trên đây? Câu trả lời nằm trong Thánh Vịnh 120 và TV 137. Trong TV 137, đó là “lũ con của Edom là những kẻ sẽ tàn phá Giê-ru-sa-lem đến tận nền móng” (TV 137: 7). Edom có nghĩa là Đỏ (Khởi Nguyên 25: 25-34). “Lũ con của Edom” là quân Cộng Sản như tôi đã trình bày trong các Điện Thư trước. Trong Thánh Vịnh 120, quân thù đó là những kẻ cai trị trong vùng đất Mê-shek (TV 120: 5). Theo tiên tri Ê-giê-ki-en, Mê-shek nằm trong lãnh thổ nước Nga, vì thế, đó là quân Cộng Sản Nga (Ê-giê-ki-en 38: 2-3,6,15). Như vậy, trong cả hai Thánh Vịnh, quân thù của Thiên Chúa chính là quân Cộng Sản Nga là những kẻ sẽ tấn công và đánh bại các nước Tây Phương theo Ki-tô-giáo trong trận nguyên tử Thế Chiến III sắp tới như tôi đã trình bày trong Điện Thư Số 6. Chúng sẽ toàn thắng và bá chủ thế giới. Dưới quyền cai trị tán ác của chúng, Ki-tô-giáo sẽ bị đập tan nát. Tín đồ của Chúa sẽ bị chúng chá đạp dưới chân như chà đạp bùn đất ngoài đường phố (Gióp 30: 19; TV 7: 5; Isaia 10: 6; Da-ni-en 7: 7,19,23). “Chúng thiêu huỷ tất cả mọi thánh đường của Chúa trong xứ” (TV 74: 8). Các sấm ngôn vừa kể tiên báo sự tan rã hoàn toàn của Ki-tô-giáo dưới bàn tay hung tàn của Cộng Sản. Thời điểm tan rã: thời thế tận Đúc kết sấm ngôn trong Thánh Vịnh 120 câu 5 với sấm ngôn trong Sách Ê-giê-ki-en Chương 38 các câu 2-3,6,15, chúng ta tìm thấy thời điểm xảy ra sự tan rã của Ki-tô-giáo. Đó là thời thế tận, là chính thời điểm chúng ta đang sống hiện nay. Chúng ta cần ghi nhớ điều này, bởi vì mỗi khi bàn đến một sấm ngôn, câu hỏi “Khi nào?” thường luôn xuất hiện. II. Sự tan rã của Ki-tô-giáo theo sấm ký Isaia Tiên tri Isaia tuyên sấm về sự tan rã của Ki-tô-giáo trong một bài sấm huyền bí ở Chương 22 gồm có 3 phần, tôi xin tóm lược như sau: Phần 1. Do-thái-giáo bị bãi bỏ Trong phần này (Is. 22: 15-19) có 2 danh xưng bí ẩn cần phải được khai quật, đó là SHEBNA (câu 15) và ELIAKIM (câu 20). Muốn biết Shebna là ai, trước hết ta phải tìm hiểu xem Eliakim là ai. Eliakim là ai mà lại được Thiên Chúa mô tả như là “người nắm giữ chìa khoá cửa nhà Đa-vít, khi ngài mở thì không ai có thể đóng lại được, và khi ngài đóng lại thì không ai có thể mở ra được” (Is.22:20)? Ta phải đi một đoạn đường xa để tìm thấy câu trả lời nằm trong sách sau cùng của Kinh Thánh là Sách Khải Huyền của Thánh Gio-an. Theo các Chương 1, 2 và 3 của Sách này thì chính Chúa Giê-su Ki-tô “ là Đấng Thánh, là Đấng chân thật, là Đấng nắm giữ chìa khoá cửa nhà Đa-vít, khi Ngài mở ra thì không ai có thể đóng lại được, và khi Ngài đóng lại thì không ai có thể mở ra được” (Khải Huyền 3: 7). Như vậy, danh xưng Eliakim, một người thuộc dòng tộc Đa-vít (Matt.1: 13) là danh xưng ám chỉ Chúa Giê-su Ki-tô. Và vì thế, danh xưng Shebna ám chỉ Do-thái-giáo. Sau đây là tóm lược lời Thiên Chúa phán với Shebna tức là với Do-thái-giáo: 1). “Ta sẽ đá ngươi văng đi xa như đá một trái banh, đá văng đi vào một khu đất trống để ngươi sẽ chết ở đó” (Is.22: 18). 2). “Ta sẽ truất phế ngươi khỏi địa vị của ngươi, lôi cổ ngươi xuống khỏi ghế ngươi đang ngồi” (Is.22: 19). 3). “Ta sẽ lột cân đai áo mão của ngươi để đem mặc vào cho Eliakim” (Is.22: 21). 4). “Ta sẽ truất chức quyền của ngươi và trao vào tay Eliakim để nó trở thành cha của dân thành Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa” (Is. 22: 21). 5). “Rồi Ta sẽ đặt lên vai nó chìa khoá cửa nhà Đa-vít; nó mà mở thì không ai đóng lại được; nó đã đóng lại thì không ai mở ra được” (Is. 22: 22). Một bản án tử hình cho Do-thái-giáo Cũng như nhiều người Do-thái khác, Gíáo Hoàng Gio-an Phaolô II và G.Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI cùng các viên chức lãnh đạo Giáo Hội tại Triều Đình Vatican cho rằng dân Do-thái vẫn còn là “Dân của Thiên Chúa”, vẫn còn là “Dân được Thiên Chúa lựa chọn”. Trong Sách Giáo Lỳ Mới năm 1992, Vatican đã lặp lại giáo điều của Công Đồng Vatican II để viết rằng: “Không được nói đến người Do-thái như là những người đã bị từ bỏ hoặc bị nguyền rủa làm như thể điều đó đã được nói trong Kinh Thánh” (Sách Giáo Lý, Điều 597; Nostra Aetate n. 4 của C. Đ.Vatican II). Nói như thế, Công Đồng Vatican II cũng như Triều Đình Vatican đã rao giảng một giáo điều sai lầm tỏ tường. Kinh Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, đều đã nói rõ rằng người Do-thái không những đã bị Thiên Chúa từ bỏ và nguyền rủa, mà hơn thế nữa, họ còn bị Thiên Chúa lên án tử hình khi Chúa gọi Shebna là “ignonimia domus domini tui” (“mối ô nhục cho nhà chủ của ngươi”), rồi Chúa lên án tử hình cho Do-thái-giáo như sau: “Chúa sẽ cuốn tròn ngươi thành như một trái banh. Rồi bằng một cú đá thật mạnh, Chúa sẽ đá trái banh đó văng đi xa vào một vùng đất rộng để ngươi chết ở đó, ngươi là kẻ trở thành mối ô nhục cho nhà chủ của ngươi” (Is. 21: 18). Đó là một bản án tử hình Chúa tuyên phạt dân Do-thái và Do-thái-giáo. Nó mang ý nghĩa của một sự dứt khoát từ bỏ, một lời nguyền rủa, một sự đoạn tuyệt dứt tình dứt nghĩa. Dân Do-thái chẳng còn là “Dân được lựa chọn” của Thiên Chúa nữa. Chúng đã bị Chúa quăng đi, giục bỏ đi như khi người ta liệng đi một thùng rác chứa đồ phế thải hôi thúi. Do-thái-giáo đã chết. Về sau, trong Tân Ước, bằng dụ ngôn bọn tá điền vườn nho, Chúa Giê-su cũng đã phán tương tự như vậy. Vì chúng đã giết Con Một của Chủ Vườn, “nên Nước Đức Chúa Trời sẽ được lấy đem đi nơi khác” (Mát-thêu 21: 41). Thánh Mát-thêu còn tường thuật rằng các linh mục và bọn Biệt Phái Pha-ri-siêu cũng hiểu rằng dụ ngôn của Chúa nhằm nói về chúng (Mat-thêu 21: 45). Khi không còn Nước Đức Chúa Trời nữa, Do-thái-giáo đã trở thành một tổ chức vô thần (“atheist = vô Thượng Đế”). Chúa Giê-su cũng đã phán: “Mọi quyền năng trên trời và dưới đất đều đã được trao cho Ta” (Matt.28: 18). “Kẻ nào ghét Ta thì cũng ghét Cha của Ta” (Gio-an 15: 23). “Kẻ nào chối bỏ Con thi chẳng có Cha” (1 Gio-an 2: 23). Người Do-thái không những ghét Chúa Giê-su, chối Chúa Giê-su, chúng còn giết Chúa nữa. Vì vậy làm sao chúng có Thiên Chúa Cha được. Xin Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI cùng các viên chức lãnh đạo Vatican hãy mở mắt ra đọc những dòng Kinh Thánh này để sửa chữa những giáo điều sai lầm của Sách Giáo Lý (như Điều 597) cùng các điều khác như tôi đã trình bày trong Điện Thư Số 5. Phần 2: Ki-tô-giáo sẽ hùng mạnh và thay thế Do-thái-giáo Chức quyền địa vị, cân đai áo mão của Shebna sẽ bị Chúa tước bỏ để đem trao cho Eliakim để Eliakim trở thành “Cha của cư dân thành Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa” (Is. 22: 21). Rồi Chúa phán về Eliakim như sau: “Ta sẽ gắn nó vào nơi vững chắc như chiếc đinh đóng vào cột. Nó sẽ trở nên ngai toà vinh quang cho nhà của cha nó. Người ta sẽ treo vào nó mọi niềm vinh quang của nhà cha nó, mọi con cháu dòng tộc, ngay cả đến những bình nhỏ và chén đĩa chum vò” (Is. 22: 23-24). Chúa Giê-su thiết lập Đạo Thiên Chúa Mới thay thế Đạo Cũ trong khi vẫn được coi là “Con Vua Đa-vít” (Matt. 1: 1; 9: 27; 20: 30, v.v.). Hàng ngàn người đã lớn tiếng tung hô Chúa Giê-su “Hoan hô Con Vua Đa-vít” để rước Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem (Matt. 21: 9). “Người ta sẽ treo vào nó ngay cả đến những bình nhỏ và chén đĩa chum vò” là sấm ngôn tiên báo sự du nhập nghi thức tế lễ trong Đạo Thiên Chúa Cũ vào Thánh Lễ Mi-sa trong Đạo Mới. Trong Đạo Cũ, bình và chén đĩa chum vò được dùng để chứa đựng thịt và máu chiên cừu trong nghi thức tế lễ toàn thiêu. Trong Đạo Mới, chén thánh và bình thánh dùng để đựng Mình Thánh và Máu Thánh trong Bí Tích Thánh Thể trong Thánh Lễ Mi-sa. Sau Isaia, tiên tri Đa-ni-en cũng tiên báo sự du nhập dụng cụ tế lễ từ Đạo Cũ sang Đạo Mới (Dan. 1: 2; 5: 2). Và rồi Đạo Mới do Chúa Giê-su lập sẽ bành trướng trở thành hùng mạnh lan tran khắp năm châu bốn bể “vững chắc như đinh đóng vào cột”, trở thành tôn giáo lớn nhất trong Lịch Sử nhân loại như ta thấy ngày nay với số tín đồ hơn 2 tỷ, so với 1.2 tỷ tín đố Hồi Giáo và 360 triệu tín đồ Phật Giáo. Phần 3: Ki-tô-giáo sẽ sụp đổ tan tành Tiên tri Isaia tuyên sấm tiếp: “Tuy nhiên, Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán rằng: một ngày kia, cái đinh đóng vào nơi vững chắc sẽ sút ra, rớt xuống, và tất cả những gì treo vào nó cũng sẽ bị cắt đứt và rớt xuống vỡ tan tành với nó, vì Thiên Chúa đã phán như thế” (Is. 22: 25). Một ngày kia, Ki-tô-giáo sẽ bị đập bể tan tành. Các giáo lý chân chính của Chúa Giê-su sẽ bị xóa bỏ, bị bóp méo, bị thay thế bằng những giáo lý giả dối. Thánh Lễ với Bí Tích Thánh Thể sẽ bị dẹp bỏ. Đạo của Chúa Giê-su Ki-tô sẽ bị hoàn toàn tan rã. III. Sự tan rã của Ki-tô-giáo theo sấm ký Giô-en Tiên tri Giô-en vốn được xếp vào hàng tiên tri nhỏ vì Sách Sấm Ký của ông rất ngắn. Tuy nhiên sấm ngôn của ông lại rất quan trọng. Thánh Phê-rô Tông Đồ, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, trong lần giảng đạo công khai đầu tiên, đã trưng dẫn sấm ngôn của tiên tri Giô-en. Có một chi tiết đáng chú ý, đó là nếu ta đem lời trích dẫn của Thánh Phê-rô như được tường thuật trong Sách Công Vụ Các Tông Đồ để so sánh với Sách Giô-en, ta sẽ thấy một sự khác biệt khá quan trọng. Sách Giô-en viết: “Sẽ xảy ra là sau đó Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên tất cả loài người. Con trai con gái của bay sẽ nói tiên tri” (Giô-en 2: 28) (1). Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại lời Thánh Phê-rô như sau: “Tiên tri Giô-en đã nói: Thiên Chúa phán rằng sẽ xảy ra là trong những ngày sau cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên tất cả loài người. Con trai con gái của bay sẽ nói tiên tri” (Công Vụ 2: 16-17). Chi tiết “trong những ngày sau cùng” được Thánh Phê-rô thêm vào cho Sấm Ký Giô-en, do đó phải được kể như là nằm trong Sách Giô-en. Và chi tiết này cho ta khung cảnh “thời điểm” của sấm ngôn Giô-en về sự tan rã của Ki-tô-giáo, đó cũng là thời điểm của sấm ngôn Đa-vít và Isaia như tôi vừa trình bày trên đây. Chủ đề của Sách Sấm Ký Giô-en là “Ngày của Chúa” (Giô-en 2: 1). Đó là ngày quân Cộng Sản Nga sẽ mở cuộc tấn công nguyên tử để đánh bại Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh Tây Phương. Đó sẽ là “một ngày u ám đen tối, một ngày mây mù dày đặc tối đen” (Giô-en 2: 2). Đó sẽ là một ngày khủng khiếp, mọi người sẽ hoảng sợ, ai nấy mặt mày xanh mét (Giô-en 2: 6). Trong một Điện Thư khác, tôi sẽ trình bày thêm về Ngày đáng sợ này, vì ở đây chúng ta đang bàn về sự tan rã của Ki-tô-giáo là chủ đề của Điện Thư này. Cộng Sản sẽ đập tan Ki-tô-giáo Vào thời thế mạt này dân của Chúa (dân Hoa Kỳ và các nước Tây Phương) sẽ trở nên rất tội lỗi. Chúa kêu gọi các nhà lãnh đạo dân Chúa (Linh Mục, Mục Sư, Giám Mục, Giáo Hoàng) hãy: 1). Thổi loa để cảnh báo đoàn chiên của Chúa về cuộc trừng phạt đang tới gần (Giô-en 2: 15). 2). Thiên Chúa phán: “Hãy trở lại với Ta bằng tất cả tâm hồn, hãy ăn chay, hãy khóc lóc van xin sự tha thứ, hãy xé nát lòng mình chứ đừng xé áo, vì Ta khoan dung và nhân hậu, chậm nổi giận và rộng lượng từ bi” (Giô-en 2: 12-13). Nhưng khốn thay, hàng mục tử đứng đầu là Giáo Hoàng cũng như đoàn chiên của Chúa chỉ biết bưng tai giả điếc, bởi thế Chúa sẽ dùng nước Nga như chiếc roi sắt để trừng phạt. Chúa gọi quân Cộng Sản Nga là “Đạo quân vĩ đại của Ta, đạo binh hùng dũng của Ta với quân số đông vô kể” (Giô-en 2: 25; 1: 6). Đại binh Cộng Sản Nga và Đồng Minh Trung Cộng-Hồi-giáo với quân số “đông vô số kể” sẽ đánh bại Hoa Kỳ và Đồng Minh Tây Phương như tôi đã trình bày trong Điện Thư Số 6. Khi dân của Chúa bị đặt dưới quyền thống trị tàn ác của Cộng Sản Nga, “nghi thức dâng bánh và rượu sẽ bị chấm dứt trong các thánh đường của Chúa; các linh mục sẽ than khóc” (Giô-en 1: 9, 13). Không còn nghi thức dâng bánh và rượu nữa, nghĩa là sẽ chẳng còn Thánh Lễ trong các nhà thờ nữa. Và đó sẽ là sự tan rã của Ki-tô-giáo. IV Sự tan rã của Giáo Hội Công Giáo La-mã Với hơn một tỷ tín đồ, Giáo Hội Công Giáo La-mã là ngành lớn nhất trong số hàng trăm Giáo Hội Ki-tô trên thế giới. Theo các sấm ngôn trong Kinh Thánh tôi đã trưng dẫn trên đây, các Giáo Hội Ki-tô sẽ bị đập tan tành bởi bàn tay của Cộng Sản Nga sau khi chúng trở thành độc quyền bá chủ thế giới. Trong một Điện Thư khác, tôi sẽ xin trình bày thêm sấm ngôn của các tiên tri khác như Giê-rê-mi-a, Ê-giê-ki-en, Đa-ni-en v.v. về sự tan rã của Ki-tô-giáo. Ở đây, tôi xin nói đến một khía cạnh đặc biệt của câu chuyện, đó là sự tan rã của Giáo Hội Công Giáo La-mã. Đây cũng là một chuyện rất dài, tôi chỉ xin trình bày vắn tắt một vài chi tiết như sau: A. Giấy Khai Tử của Giáo Hội Công Giáo Ngày 28-10-1965, trong một cuộc biểu quyết tại một phiên họp khoáng đại của Công Đồng Vatican II, có 2221 chống lại 88 Nghị Phụ (Hồng Y, Tổng G. Mục và Giám Mục) đã bỏ phiếu chấp thuận Tuyên Ngôn NOSTRA AETATE (“Thời Đại Chúng Ta”) trong đó có câu như sau: “Giáo Hội tỏ ra rất kính trọng các tín đồ Hồi-giáo. Họ tôn thờ Thiên Chúa, là Đấng độc nhất, hằng sống và hằng hữu, từ bi và toàn năng, là Đấng Tạo Hoá đã tạo dựng nên trời và đất, cũng là Đấng đã nói với loài người” (Nostra Aetate, n.3). Chúng ta nên để ý đến câu “Họ tôn thờ Thiên Chúa, là Đấng độc nhất” (“who is one”). Nghĩa là ALLAH (Chúa của Hồi giáo) không phải là “tam vị nhất thể” (“triune”) như Chúa của chúng ta. Ma-hô-mét đã từng nhiều lần nhấn mạnh đến sự khác biệt này, đồng thời lên án các tín đồ Công-giáo về tội “thờ 3 chúa” nghĩa là “thờ tà thần” (Koran IV: 171; V: 73-77,116; VI: 19,23). Sau này, trong Sách Giáo Lỳ năm 1992, nơi Điều 841,Vatican cũng đã nhắc lại tư cách “độc nhất” của chúa của Hồi Giáo. Như vậy, khi giới lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo La-mã tung hô Allah là “hằng sống, từ bi và toàn năng, Đấng Tạo Hoá đã dựng nên trời và đất”, thì đồng thời họ cũng đã từ bỏ Thiên Chúa Ba Ngôi của các tín đồ Cơ-đốc-giáo. Họ đã trở thành tín đồ Hồi giáo. Họ không còn phải là người Công-giáo nữa. Họ đã trở nên kẻ thù của Chúa. Và như vậy, họ đã khai tử Giáo Hội Công giáo La-mã, với ngày chết là ngày 28-10-1965 và Giấy Khai Tử chính là Tuyên Ngôn Nostra Aetate. Đây không phải là cái chết tự nhiên, nhưng chết vì bị bức tử, bị cố sát, bị giết bởi bàn tay của hầu như toàn thể giới lãnh đạo Giáo Hội. Dấu chỉ của thời đại: sự bỏ đạo tập thể Thánh Phao-lô Tông Đồ nói rằng Ngày Chúa Tái Lâm (tức là Ngày Tận Thế) chỉ xảy ra sau khi Nguỵ Ki-tô tức Quỷ Vương ra đời, và “tên vô luật pháp” này chỉ ra đời sau khi xảy ra sự bỏ đạp tập thể (2 Thes-sa-lô-ni-ca 2: 1-3). Sự “bỏ đạo tập thể” (“Mass Apostasy”) đã xảy ra tại Vatican vào ngày 28-10-1965 khi tập thể giới lãnh đạo Giáo Hội Công giáo đồng thanh tung hô chúa của Hồi-giáo (thần Allah) là “Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng trời và đất”. Khi tuyên xưng đức tin Hồi giáo như vậy, Giáo Hoàng Phao-lô VI cùng các Nghị Phụ trong đó có Karol Wojtyla (sau trở thành G.H.Gio-an Phao-lô II) đã “bỏ đạo tập thể”, một sự kiện được Thánh Phao-lô cho biết là dấu chỉ tiên báo sự ra đời của Quỷ Vương tức Nguỵ-Ki-tô. Và chỉ một năm sau, vào năm 1966, Quỷ Vương đã thực sự ra đời tại Hồi-quốc (Pakistan). Tên nó là Rahmat Ahmad, một tín đồ Hồi-giáo thuộc chi phái Ahmadi. Chẳng bao lâu sau nó di cư sang Anh-quốc. Bất ngờ vào ngày 11-6-1988, tại khuôn viên một thánh đường (Anh-giáo) ở ngoại ô thủ đô Nairobi (xứ Kenya, Phi châu) nó hiện ra trước mặt 6000 người trong một cuộc đại lễ. Nó xưng mình là Maitreya-Ki-tô, là Giê-su tái thế, làm phép lạ chữa bệnh cho nhiều người, rồi biến mất trong không gian. Hiện nay nó cư ngụ trong một ngôi chùa Hồi-giáo của kiều dân gốc Hồi-quốc ở ngoại ô Luân-đôn. Nó cho biết không bao lâu nữa nó sẽ dọn vào Vatican để bắt tay vào việc cải tổ lại Ki-tô-giáo. Nó còn cho biết khi thời cơ của nó tới, nó sẽ ra mắt toàn thể nhân loại bằng một biến cố vĩ đại và kỳ diệu: đó là nó sẽ xuất hiện đồng thời trên toàn thể các màn ảnh vô tuyến truyên hình khắp thế giới để đưa ra Tuyên Cáo của nó. Mọi người sẽ được nghe nó nói bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Trong một Điện Thư khác, tôi sẽ xin trình bày thêm chi tiết vế tên Đại Bịp này. Tóm lại, sự bỏ đạo tập thể của Triều Đình Vatican và hầu như toàn thể hàng Giám Mục thế giới diễn ra ngày 28-10-1965 là một dấu chỉ quan trọng của thời đại, tiên báo Ngày Quỷ Vương Ra Đời và khủng khiếp nhất là Ngày Đại Thanh Tẩy tức Đại Trừng Phạt tức Trận Thế Chiến Nguyên Tử và sau cùng là Ngày Tận Thế như tôi sẽ trình bày trong một Điện Thư khác. B. Vatican thờ quỷ Sa-tăng Thật là một điều nghe ra như không thể nào tin được. Nhưng có biết bao bằng chứng cho ta thấy rằng đã từ khá lâu, Vatican đã trở thành ngai vàng cho Vua Lucifer ngự trị. Câu chuyện này rất dài, tôi chỉ xin tóm lược mấy bằng chứng như sau. 1. Bằng chứng thứ nhất Là một bản tường trình của Linh Mục Malachi Martin,Giáo Sư Tiến Sĩ tại Giáo Hoàng Học Viện Vatican trong những năm 1958-1964, vì thế Cha phải được coi như là một “người trong cuộc” (“insider”). Trong một tác phẩm 646 trang nổi tiếng khắp thế giới nhan đề là “Windswept House” (Nhà xuất bản Doubleday, New York, 1996, nơi các trang 7-21), Cha Martin cho biết rằng vào đúng 12 giờ đêm ngày 28 tức 0 giờ ngày 29 tháng 6 năm 1963, tại Nguyện Đường Thánh Phao-lô trong Nội Thành, các viên chức cao cấp lãnh đạo Triều Đình Vatican đã họp trong vòng tối mật để cử hành Lễ Mi-sa Đen bằng tiếng La-tinh (“Black Mass”) chỉ có Giáo Hoàng Phao-lô VI vừa lên ngôi được mấy ngày là vắng mặt. Trong buổi lễ, giới lãnh đạo Giáo Hội đã cử hành những nghi thức đặc biệt sau đây: 1). Nghi thức suy tôn Lucifer lên ngôi Vua để làm Chúa của Vatican. 2). Nghi thức Bán linh hồn của mình cho Chúa Lucifer. 3). Nghi thức long trọng cắt máu lăn tay thề nguyền với Chúa Lucifer rằng mình sẽ tận lực huỷ diệt Bí Tích Truyền Chức Thánh của Giáo Hội Công Giáo. Bản tường trình của Linh Mục Martin là một tài liệu vô cùng quan trọng cho Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo La-mã. Tuy nằm trong một cuốn tiểu thuyết. nhưng được tác gỉả để trong phần đầu gọi là “Tài Liệu Lịch Sử dùng làm Lời Mở Đầu”. Cha Martin có ý nói đây là một sự kiện lịch sử. Ngoài ra, chúng ta cũng còn có những bằng chứng ngoại vi khác chứng tỏ một cách chắc chắn rằng quả thực Lucifer đã được suy tôn lên ngôi Vua Vatican vào ngày 29-6-1963. Sau đây là một vài bằng chứng: a). Về Lễ Đăng Quang của Lucifer lên ngôi Vua Vatican: Ta có thể tìm thấy một bằng chứng trong Niên Lịch Công Giáo Hoa Kỳ. Thí dụ Niên Lịch năm 2005 nơi trang 171 trong mục Ngày Lễ Kính Đức Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, ngày 29 tháng 9, ta đọc thấy ghi rằng: “Có một thời gian lễ này được nhập chung với Lễ Nhớ các Thiên Thần Bản Mạnh”. Câu nói vắn tắt nhưng mang ý nghĩa quan trọng vì nó nói đến thời kỳ những năm 1964-1969 là thời kỳ trong Lịch Phụng Vụ của Giáo Hội do Vatican ban hành mỗi năm người ta thấy tên Đức Mi-ca-e bị xóa mất. Lý do là vì liền sau khi lên ngôi Vua Vatican, Lucifer đã ra lệnh cho lũ tay sai của mình cai trị Triều Đình Vatican phải dẹp bỏ hai ngày Lễ Kính Đức Mi-ca-e, đó là ngày 29 tháng 5 là Lễ kính nhớ ngày Đức Mi-ca-e hiện ra tại Capitana (nước Ỳ) vào năm 493 và ngày 29 tháng 9 là Lễ kính nhớ ngày Cúng Hiến Đền Thánh Mi-ca-e tại La-mã năm vào 530. Từ 15 thế kỷ qua, Giáo Hội hằng năm vẫn gìữ hai ngày lễ đó. Nay Vatican không kèn không trống âm thầm bãi bỏ luôn một lúc hai ngày lễ đó, trong khi vẫn giữ nguyên hai ngày Lễ kính hai Tổng Lãnh Thiên Thần kia là ngày 24 tháng 10 kình Đức Gabriel và ngày 24 tháng 4 kính Đức Raphael. Lý do thật đơn sơ dễ hiểu: đó là để báo thù Đức Mi-ca-e, chứ không báo thù Đức Gabriel và Raphael. Lucifer không bao giờ quên mối thù xa xưa. Có lẽ vào khoảng 40 tỷ năm trước khi Lucifer lúc đó là Thống Tướng Tổng Tư Lệnh Quân Lực Thiên Quốc bỗng sinh lòng kiêu ngạo bèn nổi loạn nhằm lât đổ Thiên Chúa để cướp ngôi Vua Thiên Quốc, nhưng bị Đức Mi-ca-e là Phụ Tá của nó đứng lên thống lãnh các đơn vị trung thành với Thiên Chúa phản công. Nhờ ơn Thiên Chúa, phe Đức Mi-ca-e toàn thằng, đánh đuổi Lucifer và bè lũ xuống Hoả ngục. Nó trở thành Quỷ Satan, không bao giờ quên mối thù đối với Đức Mi-ca-e. Nay nó lên ngôi Vua Vatican. Việc đầu tiên nó làm là trả thù Mi-ca-e. Ta nên nhớ danh xưng MICHAEL trong tiếng Do-thái có nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa” (“Quis ut Deus?”), là khẩu hiệu Đức Mi-ca-e lớn tiếng la lên khi ngài đứng lên hô hào các Thiên Thần theo ngài để tổng phản công đánh lại phe Lucifer. Nhưng rồi có hàng ngàn người trong đớ có cả những Hồng Y, Tổng Giám Mục mang tên thánh là Mi-ca-e. Hàng năm họ mừng ngày sinh nhật của mình vào một trong hai ngày Lễ kính Đức Mi-ca-e. Nay bỗng nhiên Lễ này biến mất. Họ khiếu nại. Ngày càng nhiều người khiếu nại và chất vấn Vatican. Sau cùng thấy không lờ đi mãi được, bọn tay sai của Quỷ cai trị Vatican đành cho tái lập Lễ Kính Đức Mi-ca-e vào ngày 29 tháng 9, nhưng để gỡ gạc bù lại, chúng dẹp bỏ luôn hai ngày Lễ kính hai Tổng Thần kia. Bời thế, kể từ năm 1970, ba Tổng Lãnh Thiên Thần chung nhau một Lễ kính vào ngày 29/9. Và bọn cai trị Vatican đưa ra lời giải thích rằng trong khoảng thời gian 1964-1969, Lễ Kính Đức Mi-ca-e được “hiểu ngầm và nhập chung” với Lễ nhớ các Thiên Thần Bảnh Mạnh là ngày 2 tháng 10. Đó là một sự hỗn láo vì làm như vậy, chúng đã giáng cấp Đức Mi-ca-e từ cấp Thống Tướng xuống cấp binh nhì: để báo thù cho vụ hận thù xa xưa. b). Về lời thề nguyền tận lực huỷ diệt Bí Tích Truyền Chức Thánh: Trong Điện Thư Số 5, tôi đã trình bày chi tiết về đề tài này, ở đây tôi chỉ xin nhắc lại vắn tắt. Ta nên để ý để thấy rằng bọn lãnh đạo Triều Đình Vatican chỉ thề nguyền với quỷ Lucifer rằng mình sẽ tận lực huỷ diệt một Bí Tích là Truyên Chức Thánh mà không nói gì đến 6 Bí Tích còn lại như Thánh Thể, Giải Tội, Thêm Sức v.v. Bởi vì nếu không còn Bí Tích Truyền Chức thi chẳng còn Linh Mục, Giám Mục, và như vậy Giáo Hội coi như chết. Và chúng đã thực hành lời thề nguyền đó một cách cực kỳ lưu manh, đó là bằng cách thiết lập quy chế Linh Mục Hai Chức kể từ năm 1970 để thay thế Linh Mục Bảy Chức Thánh khi xưa. Điều cốt yếu không phải ở con số 2 chức hay 7 chức mà ở thực chất của các chức thánh. Khi xưa, 7 chức là 7 chức. Ngày nay 2 chức chỉ là con số 0. Khi truyên chức cho Linh Mục theo quy chế mới, Giám Mục khong hề trao cho tân Linh Mục một năng quyền nào của Linh Mục như tôi đã chứng minh rõ ràng trong Điện Thư Số 5, rõ ràng không ai có thễ chối cãi được. Tôi thách bất cứ ai đưa ra được bằng cớ ngược lại. Làm Linh Mục mà chỉ được trao cho một chức bâng quơ trống rỗng ngớ ngẩn như chức “đọc Phúc Âm cho người chết” (Chức Phó Tế), không hề được trao cho năng quyền Cử Hành Thánh Lễ và năng quyên Giải Tội, thì làm Linh Mục để làm gì! Để lừa gạt người khác chăng? Hơn 200 ngàn Linh Mục thuôc quy chề 2 chức hiện nay đều là Linh Mục giả. Vì vô năng quyền nên cử hành Thánh Lễ cũng vô hiệu, giải tội cũng vô hiệu. Linh Mục trở thành tàn phế Ngay các Linh Mục thuộc quy chế 7 chức khi xua, ngày nay cũng trở thành tàn phế. Họ vẫn còn năng quyền Giải Tội, nhưng năng quyền cử hành Thánh Lễ đã trở thành vô dụng vì bọn tay sai của Sa-tăng cai trị trong Vatican đã huỷ bỏ Thánh Lễ Truyền Thống để ban hành Nghi Thức Thánh Lễ Mới gọi là Novus Ordo, một Nghi Thức trống rỗng. Trong Thánh Lễ Mới áp dụng từ 1970, Bí Tích Thánh Thể đã bị chúng vô hiệu hoá một cách rất quỷ quyệt. Ai cũng biết rằng Bí Tích Thánh Thể là linh hồn cua Lễ Mi-sa vì nếu không có Mình Thánh và Máu Thánh thì Thánh Lễ trở thành trống rỗng. Bởi thế, phần Lễ Qui (“Canon”) là phần chính của Thánh Lễ. Trong phần này Linh Mục lặp lại bài kinh gọi là Lời Truyền đúng như lời Chúa Giê-su đã truyền khi xưa khi Chúa thiết lập Bí Tíchh Thánh Thể và Chức Linh Mục trong Bữa ăn sau cùng. Trong Lời Truyền Máu Thánh, có một câu quan trọng gọi Bí Tích này là “Mysterium Fidei” (“Màu Nhiệm Đức Tin”) thì đã bị Vatican cắt bỏ ra ngoài. Vì Lời Truyền đã bị thay đổi, nên chẳng còn hiệu lực “thay đổi bản thể” (“transubstantiation”) bánh và rượu nữa. Nghĩa là Bánh mì vẫn là bánh mì, không trở thành Mình Chúa Giê-su, và Rượu Nho vẫn chỉ là rươu nho, không trở thành Máu của Chúa. Và vì thế, Thánh Lễ coi như đã bị moi ruột, trở thành vô hiệu lực. Với Thánh Lễ “Novus Ordo”, Linh Mục 2 chức hay 7 chức cũng vậy thôi, không ai hơn ai. Vì sự huỷ bỏ tinh quái này, một số Giám Mục và Linh Mục đã bỏ “Đạo Vatican” để lập những “Giáo Hội Độc Lập”, như trường hợp Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre của Pháp và TGM Ngô Đình Thục của Việt Nam. Họ tiếp tục cử hành Thánh Lễ Truyền Thống Tri-đen-ti-nô, cho rằng Vatican đã mất Đức Tin Công Giáo. 2. Bằng chứng thứ hai về vụ Vatican thờ Quỷ Sa-tăng: đó là lời tố cáo của Tổng Giám Mục Emmanuel Milingo đưa ra trước một phiên họp khoáng đại của Hội Nghị “Fatima 2000” họp tại La-mã trong những ngày 18-24 tháng 11 năm 1996. Vào thời gian này, TGM Milingo đang giữ chức “Special Delegate of the Pontifical Council for the Pastoral Care of Migrants” (“Sứ Thần Đặc Biệt của Hội Đồng Giáo Hoàng về Mục Vụ cho người Di Cư”). Lên tìếng trước Hội Nghị “Fatima 2000”, ông tố cáo rằng Triều Đình Vatican nằm dưới quyền cai trị của các tín đồ thờ Quỷ Sa-tăng. Lời tố cáo này được báo chí ở thủ đô La-mã loan tải như một trái bom nổ tung với những hàng chữ lớn. Linh Mục Nicholas Gruner (Gia-nã-đại) đã tường thuật đầy đủ chi tiết vụ tố cáo này trên tạp chí “Fatima Crusader” trong Số 54 ra vào Mùa Đông năm 1997 nơi các trang 29, 90, 96 (xin xem www.fatima.org). 3. Bằng chứng thứ ba Là lời tố cáo của Đức Ông Luigi Marinelli trong một tác phẩm của ông nhan đề là “Via Col Vento in Vaticano” (nhà xuất bản Kaos, Milan, 1999). Ông đã từng phục vụ lâu năm trong Triều Đình Vatican, nay về hưu để viết sách tố cáo những sự thối nát, tham nhũng, mua quan bán tước, dâm ô đồng tính và nhất là thờ quỷ Sa-tăng trong cung điện Vatican. Độc giả có thể đọc những lời ông tố cáo Vatican thờ quỷ Sa-tăng nơi các trang 172 và tiếp theo trong bản dịch Anh ngữ nhan đề là “Shroud of Secrecy” (“Tấm Màn Che Phủ Bí Mật”) do nhà xuất bản Key Porter Books, Canada, 1999, hoặc nơi các trang 245 và tiếp theo trong bản dịch tiếng Pháp nhan đề là “Le Vatican Mis à Nu” (“Vatican bị lột trần truồng”) do nhà xuất bản Robert Laffont, Paris, 2000. Những bằng chứng rành rành kể trên thiết tưởng đủ để chứng tỏ rằng quả thực quỷ Lucifer đã được bọn lãnh đạo Triều Đình Vatican suy tôn lên làm Vua Vatican vào đêm 28 rạng ngày 29 tháng 6 năm 1963. Chúa Giê-su phán “Hãy xem quả thì biết cây” (Matt.7: 20). Trong Điện Thư Số 5 cũng như Điện Thư này, tôi đã và sẽ trưng dẫn biết bao trái mang nọc độc của quỷ Sa-tăng là những giáo lý của quỷ do Vatican ban hành. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II có thờ Quỷ không? Thật là khó mà tưởng tượng được rằng Gio-an Phao-lô II sống trong hang quỷ là Cung Điện Vatican 27 năm mà lại không phải là tín đồ thờ quỷ. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô I lên ngôi ngày 3 tháng 9 năm 1978. Ba ngày sau, Tổng Giám Mục Nikodim là Giáo Chủ Giáo Hội Chính Thống Nga tới thăm xã giao. Giáo Hoàng tiếp Nikodim trong phòng làm việc. Hai người ngồi sát cạnh nhau. Một viên chức của Triều Đình bưng ra một tách nước trà và đặt trước mặt Giáo Hoàng. Khi viên chức đó trở lại tay bưng một tách nước trà khác đang toan đặt trước mặt người khách thì Giáo Hoàng đẩy tách nước trước mặt mình sang trước mặt Nikodim. Hai người uống trà. Chỉ mấy giây đồng hồ sau, Nikodim gục đầu chết trên tay Giáo Hoàng. Vatican đã cố đầu độc để giết Giáo Hoàng, nhưng chẳng may giết lầm “đồng chí Nikodim”. Nhưng mấy tuần sau, ngài cũng bị giết vào ngày 28 tháng 9. Giới quan sát đều cho rằng Đức Gio-an Phao-lô I bị giết chỉ vì ngài không phải là thành viên thuộc Băng Đảng Sa-tăng của bọn cầm quyền trong Vatican. Về phần hai Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và Bê-nê-dic-tô XVI, nếu hai ông không phải là thành viên của Băng Đảng này, làm sao hai ông có thể sống lâu năm trong hang rắn độc như vậy? C. Gio-an Phao-lô II: quá thánh hay quá quỷ? Chừng một tuần lễ sau khi lên ngôi, Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI quyết định cho phát động thủ tục phong thánh cho Gio-an Phao-lô II viện lẽ ông này “quá thánh thiện, không thể chờ đợi 5 năm theo Giáo Luật” được. Ta hãy duyệt sơ lược tiểu sử để xem ông này có “quá thánh” hay “quá quỷ”. 1. Ông là kẻ sát nhân? Để hiểu rõ tội trạng vô cùng nặng nề này của G.H.Gio-an Phao-lô II, trước hết ta cần đọc lời Thiên Chúa phán qua tiên tri Ê-giê-ki-en (Chương 3 các câu 17-20 và Chương 33 các câu 2-9) tóm lược như sau: “Giáo Hoàng là người lính canh của dân Chúa. Ông có nghĩa vụ phải thổi loa để cảnh báo dân khi thấy một trận chiến tranh đang sắp xảy tới. Nếu không làm như vậy, ông sẽ bị coi là kẻ sát nhân giết hại những kẻ bị chết trong trận chiến đó”. Tại Fatima vào năm 1917, qua Đức Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa đã ban sứ điệp có mang chữ ký của Chúa (đó là phép lạ mặt trời nhảy múa trước sự chứng kiến của 70 ngàn người). Sứ đìệp quan trọng này tóm lược như sau: “Trận chiến này sắp chấm dứt. Nhưng nếu nhân loại cứ tiếp tục phạm tội thì một trận chiến khác thảm khốc hơn sễ bùng nổ trong triều đại giáo hoàng Pi-ô XI. Rồi nếu nhân loại không trở về với Thiên Chúa thì Chúa sẽ dùng nước Nga như chiếc Roi Sắt để trừng phạt thế giới. Nước Nga sẽ gieo rắc sự sai lầm của mình đi khắp thế giới, gây nên nhiều cuộc chiến tranh và sự đàn áp. Nhiều dân tộc sẽ bị huỷ diệt”. Rõ ràng là trong sứ điệp vừa kể có lời tiên báo về ba trận thế chiến: Trận Thế Chiến I sắp chấm dứt. Trận Thế Chiến II sẽ xảy ra trong triều đại G. Hoàng Pi-ô XI. Trận Thế Chiến III chính là trân trong đó “nhiều dân tộc sẽ bị huỷ diệt”. Sứ điệp cũng nói rõ rằng TỘI Lỗi của loài người là nguyên nhân gây ra các trận chiến tranh. Ta chẳng nên đổ hết tội gây chiến lên đầu Hít-le, người Đức hay người Nhật. Người đầu tiên phải chịu trách nhiệm về sự thiệt mạng của 50 triệu người trong Đệ II Thế Chiến là chính Giáo Hoàng Pi-ô XI. Ông đã không chu toàn nghĩa vụ Chúa trao phó là phải thổi loa báo động về “một trận chiến khác thảm khốc hơn sẽ bùng nổ trong triều đại của ông”. Ông đã tỏ ra vô trách nhiệm, đã bất chấp mệnh lệnh Fatima, và vì thế ông là kẻ sát nhân giết hại 50 triệu người trong Thế Chiến II. Nếu ông cực lực lên tiếng báo động, nhân loại có lẽ đã thoát khỏi trận chiến này. Về trận nguyên tử Thế Chiến III, nếu xảy ra, ít nhất cũng có khoảng 4 tỷ người bị giết. Ai là người phải chịu trách nhiệm về cái chết của những người này. Chính Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II là kẻ sẽ “mắc nợ máu” về trận chiến khủng khiếp này vì ông đã không hề rao giảng sứ điệp Fatima để cảnh báo nhân loại về “trận chiến đang đi tới” như mệnh lệnh của Chúa qua tiên tri Ê-giê-ki-en tôi vừa trình bày trên đây. Ông là kẻ sát nhân, chẳng phải “quá thánh” như lời Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI đã nói. Hỡi Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI, xin ngài hãy thức tỉnh dậy để đọc Sứ Điệp Fatima và để hiểu rằng trong trận Thế Chiến II, 6 triệu người Do-thái bị giết là vì tội của dân Do-thái đã giết Con Thiên Chúa 2000 năm trước. Tại Auschwitz (Đức), ngày 28 tháng 5/ 2006 vừa qua, ngài đã chất vấn Thiên Chúa về vụ này: “Tại sao Chúa cho phép Hít-le tàn sát dân Do-thái như vậy?”. Ngài nói thế chứng tỏ ngài không biết không hiểu biết gì về Sứ Điệp Fatima. Bây giờ xin ngài hãy đọc lại sứ điệp này và lớn tiếng thổi loa cảnh báo nhân loại về cuộc tàn sát nguyên tử đang lù lù bước tới. Nếu không làm như vậy, ngài cũng sẽ bị coi là kẻ sát nhân như Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Ngài vừa ban hành Thông Điệp đầu tay nhan đề là “Deus Caritas Est” (“Thiên Chúa là Tình Yêu”). đề ngày 25-12-2005 ban hành ngày 25-1-2006.Tại sao ngài lại đi rao giảng Tình Yêu của Chúa trong lúc này là lúc Chúa đang bừng bừng nổi giận, tay đang cầm Roi Sắt (nước Nga), đang đe sẽ trừng phạt nhân loại bằng một cuộc trừng phạt vô cùng khủng khiếp “trong đó phần lớn dân số thế giới sẽ bị tiêu diệt” như lời Đức Mẹ nói ngày 13-10-1973 tại Akita (Nhật bản). Giám Mục John Shojiro Ito của Giáo Phận Niigata (trong đó có giáo xứ Akita) cho biết ông đã hai lần đích thân tới Vatican để trình bày cho ngài và Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II về sứ điệp khẩn trương này của Thiên Đình, nhưng có ai nghe thấy ngài cũng như Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II rao giảng gì về sứ điệp này đâu. Lúc này mà ngài đi rao giảng về Tình Yêu của Thiên Chúa là ăn nói lạc đề, nói không đúng lúc. Hay là ngài cứ mặc kệ để cho “phần lớn nhân loại bị giết” vì ngài “bất cần”? 2. Ông công khai rao giảng giáo điều của Quỷ Sa-tăng Ngày 28-7-1999 trước hàng chục ngàn khách hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới, tại Công Trường Thánh Phê-rô ở La-mã, G. Hoàng Gio-an Phao-lô II đã công bố một giáo lý mới của Giáo Hội Công-giáo: đó là “Chẳng làm gì có Lửa Hoả Ngục”. Báo chí khắp thế giới đã rùm beng loan tải tin này, như một trái bom nổ. Thật là táo gan! Chỉ có tay sai của quỷ Sa-tăng mới to gan dám mở miệng làm phát ngôn viên công khai cho quỷ như vậy. Từ cửa miệng một ông thánh không thể nào phát xuất ra những lời đầy nọc độc của Sa-tăng như thế . Chúa Giê-su đã giảng về Lửa Hoả Ngục biết bao lần (xem Mat-thêu 5: 22; 13: 42,50; 18: 9 v.v.). Hỡi Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI, ngài có nghe thấy Gio-an Phao-lô II rao gỉảng cho cả thế giới nghe giáo điều của quỷ Sa-tăng như thế không? Nếu có nghe, tại sao ngài không lên tiếng để bênh vực Chúa Giê-su? Phải chăng ngài cũng đồng ý với Gio-an Phao-lô II, vì nếu không thì ngài đã phải lên tiếng phi bác rồi từ chức và ra khỏi Vatican. Nếu ngài đồng ý cho rằng “chẳng làm gì có lửa Hoả Ngục”, thi ngài cũng là một tay sai của quỷ Sa-tăng. Cả một đời làm Giáo Hoàng, chỉ cần rao giảng một giáo điều của Sa-tăng như thế cũng quá đủ để chứng tỏ rằng Gio-an Phao-lô II là một tay sai của quỷ Sa-tăng. 3. Ông bỏ Công-giáo để đi theo Hồi-giáo Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II là một trong các Nghị Phụ biểu quyết chấp thuận Tuyên Ngôn Nostra Aetate. Vì thế, ông đã trở thành một tín đồ Hồi-giáo. Gần 3 chục năm sau, ông lại một lần nữa tuyên xưng đức tin Hồi-giáo của ông trong Sách Giáo Lý Mới năm 1992, trong đó, nơi Điều 841 ông lại tung hô Allah là “Đấng Tạo Hoá”. Khi còn sống, Gio-an Phao-lô II đã ca tụng và tung hô Allah, đã ôm hôn kinh Koran, đã tăng cường đức tin của bọn khủng bố ôm bom giết người, khi chết, ông cũng muốn chết và được an táng như một tín đồ Hồi Giáo. Ta hãy nhìn xem quan tài của ông. Chưa bao giờ quan tài của một Giáo Hoàng Công Giáo mà lại thô sơ mộc mạc như thế, không sơn phết trang trí như quan tài các Giáo Hoàng khác. Chôn cũng không chôn dưới đất như các Giáo Hoàng khác mà chỉ để quan tài trên mặt đất rồi phủ cát lên trên theo như nghi thức Hòi Giáo (xem www.tinparis.net, mục Chuyện Lạ). 4. Ông truất phế Chúa Giê-su Chúa Giê-su đã phán rằng vào lúc tận thế Chúa sẽ từ trời ngự xuống trong vinh quang và ngồi trên ngai vinh hiển của Chúa để phán xét loài người (Mat-thêu 25: 31). Nhưng Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã nói nghịch lại. Ông cho rằng vào ngày tận thế, Chúa Allah của Hồi Giáo, là Đấng Tạo Hoá, là Đấng sẽ ngồi trên ngai để phán xét loài người (Điều 841 Sách Giáo Lý của Giáo Hoàng năm 1992). Nếu Allah mà ngồi trên ghế quan toà để xét xử loài người thì chắc chắn nó sẽ đặt Gio-an Phao-lô II và Bê-nê-dic-tô XVI đứng bên hữu của nó, đứng cạnh Usama bin Laden, Muhammad, Saddam Hussein và các tín đồ Hồi Giáo nhất là bọn ôm bom nổ tung giết hàng ngàn người gần đây, rồi nó đưa tất cả “lên thiên đàng”. Các tín đồ thờ Thiên Chúa kể cả Đức Maria, Thánh Phê-rô, Phao-lô v.v. vì không theo Hồi Giáo nên sẽ phải đứng bên Tả rồi bị tuyên án xuống Hoả Ngục. Truất phế Chúa Giê-su khỏi ngai vinh hiển như vậy, hiển nhiên hai Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và Bê-nê-dic-tô XVI là tay sai của Sa-tăng. 5. Ông chối bỏ ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su Cũng theo Điều 841 Sách Giáo Lý của hai Giáo Hoàng, “chương trình ơn cứu độ” của Thiên Chúa cũng bao gồm hai loại người sau đây: a). Những ai nhìn nhận có Đấng Tạo Hoá. Người Việt Nam và người Trung Hoa thuộc loại người này. Vì thế, họ không cần phải theo Chúa Giê-su, không cần được “rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” như mệnh lệnh của Chúa Giê-su (Mat-thêu 28: 19). b). Những ai “tuyên xưng niềm tin của Abraham”. Người Ả-rập, người Hồi Giáo và người Do-thái thuộc loại người này. Họ cũng không cần ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su, không cần phải rửa tội như mệnh lệnh của Chúa Giê-su. Khi đưa ra giáo điều vừa kể, hai Giáo Hoàng đã đạp vào mặt Chúa Giê-su, coi mệnh lệnh của Chúa như không có giá trị, coi công cuộc cứu thế của Chúa như vô dụng. Chỉ những kẻ làm tay sai cho quỷ Sa-tăng mới dám rao giảng những giáo điều như thế. 6. Ông kết tội Chúa Giê-su, gỡ tội cho dân Do-thái Đọc các Điều 574-598 nhất là hai Điều 588-589 Sách Giáo Lý của G. Hoàng Gio-an Phao-lô II, chúng ta thấy rõ giáo lý của ông cho rằng người Do-thái khi xưa chẳng có tội lỗi gi khi kết án tử hình và đóng đinh Chúa Giê-su. Ông đưa ra những lý lẽ sau đây để “chạy tội” cho người Do-thái: 1). Người Do-thái không biết rằng Chúa Giê-su là Thiên Chúa. 2). Người Do-thái có nghe thấy Chúa Giê-su nói với người bất toại rằng : “Tội của con đã được tha”. 3). Người Do-thái tin một cách chí lý rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội cho người ta. 4). Bởi các lẽ ấy, người Do-thái đã có lý do chính đáng để buộc Chúa Giê-su tội “phạm thánh”, tiếm quyền Thiên Chúa khi tuyên bố tha tội cho ngưòi bất toại. Tiếm quyền như vậy là phạm trọng tội đáng bị tử hình bằng cách đóng đinh vào thập giá. Nếu có lý do chính đáng để đóng đinh Chúa Giê-su thì người Do-thái đâu có lỗi gì! Chính Chúa Giê-su đã cung cấp lý do chính đáng cho người Do-thái đóng đinh, thì chính Chúa mới là tội nhân đáng bị tử hình (Điều 598 Sách Giáo Lý). Lý lẽ của kẻ mù Lý lẽ cho rằng vì người Do-thái không biết Chúa Giê-su là Thiên Chúa nên khi nghe Chúa nói “tha tội cho người bất toại”, người Do-thái đã có lý do chính đáng để đóng đinh Chúa. Lý lẽ đó là lý lẽ của kẻ mù. Bởi vì liền sau khi Chúa phán “tội của con đã được tha”, Chúa liền bảo anh chàng này rẳng: “Hãy chỗi dậy vác chõng mà về nhà”. Và anh ta liền chỗi dậy vác chõng ra về (Matt.9: 5-7). Chỉ có những kẻ mù mới không thấy phép lạ chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa. Đó là quyền năng chữa lành kẻ toàn thân bất toại chỉ bằng một lời nói suông, không dùng bất cứ thứ thuốc men gì. Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng lý lẽ này là do Vatican nại ra để gỡ tội cho người Do-thái chứ không phải chính là lý do khiến người Do-thái quyết định giết Chúa Giê-su. Theo sự tường trình của Thánh Gio-an, sau khi thấy Chúa làm phép lạ cho ông La-gia-rô đã chết và chôn 4 ngày được sống lại, bọn linh mục Do-thái bèn triệu tập một phiên họp khẩn cấp và quyết định “phải làm sao tìm cách giết được tên này, nếu không dân chúng sẽ đi theo nó hết” (Gio-an 11: 1-57; 12: 1-11). Xin Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI hãy mở mắt ra, mở thật to mắt ra để đọc bài tường trình này của Thánh Gio-an. Hãy đọc để nhận ra rằng lý lẽ do Vatican nại ra để chạy tội cho bọn sát nhân Do-thái là lý lẽ của kẻ mù. Làm tới Giáo Hoàng, Hồng Y lãnh đạo hàng tỷ giáo dân mà mù thì “kẻ mù dẫn dắt kẻ mù cả hai sẽ lăn cù xuống hố”, đó là lời Chúa (Mat-thêu 15: 14). Như thế, làm sao Giáo Hội không rơi vào tình trạng tan nát như ngày nay? Những điều trên đây cho ta thấy rằng Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo rõ ràng là một Sách Giáo Lý của quỷ Sa-tăng và những kẻ viết ra sách này rõ ràng là một lũ tay sai của Sa-tăng. Mặc dầu Gio-an Phao-lô II là kẻ đứng đầu phải chịu trách nhiệm, nhưng Bê-nê-dic-tô XVI cũng phải chịu trách nhiệm không kém, vì trong suốt 8 năm soạn thảo (1986-1992), Hồng Y Ratzinger (nay là G.H.Bê-nê-dic-tô XVI giữ vai Chủ Tịch Uỷ Ban Soạn Thảo. Bởi thế, ông phải biết những giáo điều ngang nhiên nặc mùi Sa-tăng trong đó. Khi lên ngôi ngày 7-5-2005, nếu ông là người của Thiên Chúa, ông đã phải lập tức ra lệnh huỷ bỏ các giáo lý Sa-tăng đó. Nhưng trái lại, chỉ một tuần sau, vào ngày 13-5-2005, ông đã ra lệnh phát động thủ tục phong thánh cho Gio-an Phao-lô I I viện lẽ ông này “quá thánh”. Điềy đó chứng tỏ cà hai đều là kẻ thù cua Thiên Chúa. 7. Ông đánh cướp Công Đồng để chôn sống Giáo Hội Hồng Y Giuseppe Siri, Tổng Giám mục Giáo Phận Genoa (nước Ý, qua đời 1989) tiết lộ rằng các Nghị Phụ thuộc Khối Đa Số tại Công Đồng Vatican II gọi là Khối “Liên Minh Âu Châu” (“European Alliance”) trước khi tới Vatican để hội nghị đã lén lút họp với nhau tại một nơi bí mật ở Âu-châu. Rồi tại phiên họp đầu tiên của Công Đồng, họ đã bất ngờ tung ra một cuộc Cách Mạng để cướp đoạt Công Đồng. Cuộc Cách Mạng đã thành công và họ đã thao túng khống chế Công Đồng một cách trọn vẹn cho tới ngày bế mạc (tháng 12 năm 1965). Một trong những lãnh tụ của khối này là Hồng Y Joseph Frings, Tổng Giám Mục thành Cologne kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục nước Đức, có một Linh Mục trẻ lảm bí thư và cố vấn là Joseph Ratzinger (nay là G.H.Bê-nê-dic-tô XVI). Giám Mục Karol Josef Wojtyla (sau trở thành G.H.Gio-an Phao-lô II) cũng là một trong các lãnh tụ của Khối Liên Minh Âu-châu. Hồng Y Giuseppe Siri gọi các thành viên của Khối này là “những kẻ phản bội Giáo Hội”, những kẻ hùng hục đào mồ để chôn sống Giáo Hội Công Giáo (2). Như vậy, cả hai Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và Bê-nê-dic-tô XVI đều bị một Hồng Y lão thành kết án là “phản bội Giáo Hội”, là “kẻ đào mồ để chôn sống Giáo Hội”. Cán bộ Tình Báo Nga KGB đẻ ra C. Đ. Vatican II Một tài liệu được phổ biến dưới hình thức một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Pháp của Marie Carre nhan đề là “ES 1025”, dược Linh Mục Ira J. Bourassa dịch sang Anh ngữ nhan đề là “AA 1025” (3). Theo tài liệu này, Công Đồng Vatican II nguyên thuỷ được hoạch định bởi một người Ba-lan có bộ óc thông minh siêu việt. Người này được Sở Tình Báo Nga KGB tuyển mộ và cho xâm nhập một chủng viện Công Giáo Ba-lan để trở thành Linh Mục. Chình tên cán bộ tình báo đội lốt Linh Mục này là cha đẻ ra một kế hoạch cực kỳ tinh vi nhằm huỷ diệt Giáo Hội bằng một Đại Công Đồng. Trung Ương Tình Báo Nga KGB chấp thuận kế hoạch này và ra lệnh cho tiến hành công việc triêu tập và điều hành C. Đ. Vatican II. Bây giờ nếu chúng ta đọc về những gì đã thực sự xảy ra tại C. Đ.Vatican II, nhất là những bản tường trình của Linh Mục Dòng Ngôi Lời Ralph M. Wiltgen trong tác phẩm 304 trang nhan đề là “the Rhine flows into the Tiber” (“Sông Rhin chảy vào sông Tiber”), hoặc bản tường trình của Romano Amerio, chuyên viên và cố vấn của Giám Mục Angelo Jelmini tại C. Đ.Vatican II trong tác phảm 786 trang nhan đề là “Iota Unum” (4), chúng ta sẽ thấy rằng kế hoạch nhằm huỷ diệt Giáo Hội Công Giáo do Trung Ương Tình Báo Nga KGB hoạch định đã được thi hành chu đáo tại C. Đ.Vatican II. Rồi trong khi tên cán bộ Linh Mục cha đẻ ra Vatican II đang sọan thảo kế hoạch cho Công Đồng Vatican III thì hắn gặp tai nạn xe cộ, được xe cứu thương đưa vào Phòng Cấp Cứu tại một bệnh viện ở Ba-lan. Một lát sau hắn tắt thở. Cô y tá Phòng Cấp Cứu tiếp nhận băng-ca lượm được một sổ tay của hắn, trong đó có tài liệu về C. Đ.Vatican II và Dự thảo về C. Đ.Vatican III. Theo Dự Thảo này, với C. Đ.Vatican III, Giáo Hội Công Giáo sẽ thành “Giáo Hội Hoàn Vũ” (“Universal Church” và Thiên Chúa của Ki-tô-giáo sẽ trở thành “Đấng Siêu Nhiên” (“Superbatural”), không còn đặc tính căn bản nào của Thiên Chúa nữa. Tuy Vatican III bị sẩy thai, chết trong bụng mẹ của cán bộ Cộng Sản, chẳng được sinh nở mẹ tròn con vuông như Vatican II, nhưng hai Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II và Bê-nê-dic-tô XVI đã “đẻ ra” được một quái thai để thay thế, đó là Sách Giáo Lý năm 1992. Với Sách Giáo Lý này, Thiên Chúa chẳng còn chỗ đứng trong Giáo Hội nữa, vì đã có thần Allah của Hồi Giáo thay thế rồi, như tôi đã trình bày trong Điện Thư Số 5. D. Thiên Chúa công khai từ bỏ Vatican Trong Sách Khải Huyền, Thánh Gio-an tương thuật rắng ông có nghe thấy tiếng nói từ Thiên Đình kêu gọi dân của Chúa hãy ra khỏi Ba-by-lon, rằng : “hỡi dân của Ta, hãy ra khỏi nó để bay khỏi tham dự vào tội lỗi của nó, để khỏi phải bị trừng phạt với nó, vì tội lỗi của nó đã chồng chất cao ngút trời” (Khải Huyền 18: 4-5). Thánh Gio-an đã mô tả Ba-by-lon như là một thành phố xây trên 7 ngọn đồi và “ngồi trên nhiều vùng nước” (K.H.17: 9,1). Ai cũng biết La-mã là thành phố xây trên 7 ngọn đồi, nhưng “ngồi trên nhiều vùng nước” ám chi sự hiện diện của Giáo Hội Công Giáo trên khắp 5 châu 4 bể. Ông có ý nói rằng Thiên Chúa đã lên án Giáo Hội Công Giáo La-mã và kêu gọi dân của Chúa hãy chạy ra khỏi Giáo Hội này vì nó chẳng còn phải là Giáo Hội của Chúa nữa khi mà toàn thể giới lãnh dạo đã tung hô và tôn thờ Allah chúa của Hồi Giáo (Nostra Aetate n.3, Sách Giáo Lý # 841). Hai ngàn năm sau Sách Khải Huyền, Thiên Chúa đã lặp lại sự nguyền rủa và từ bỏ Giáo Hội La-mã, lần này không bằng lời nói mà bằng “an act of God” (“một việc Thiên Chúa làm”) như lời của giới khoa học gia nước Ý. Câu chuyện như sau: Theo một bản tin của hãng thông tấn xã “Associated Press” đánh đi từ thủ đô La-mã ngày 10 tháng 12 năm 1994, một biến cố kỳ lạ đã xảy ra tại Vatican: hàng ngàn hàng vạn chim trời không biết từ đâu bay tới vùng trời Vatican. Chúng tới hình như có sứ mạng chỉ để làm một việc quái đản là phóng uế trên lãnh thổ “thành thánh” này. Mọi nơi mọi chỗ trên lãnh thổ của quốc gia nhỏ bé nhất thê giới này kể cả Công Trường Thánh Phê-rô, tất cả đều bị chim ỉa trắng xoá hết: trên các mái nhà, các mui xe, bãi đậu xe, đường phố, không một nơi nào thoát. Khách bộ hành thì phải che dù hoạc lấy giấy báo che đầu để khỏi lãnh cứt chim. Mà chỉ có Vatican bị nạn, thành La-mã thì lại thoát khỏi “thiên tai” kỳ quái này. Toà Thánh không biết đối phó cách nào đã phải kêu cầu chánh phủ Ý tiếp cứu. Chánh Phủ Ý đã gửi các chuyên viên tới. Họ dùng các xe phóng thanh thật lớn phát ra những âm thanh súng đại liên nổ cực mạnh. Nhưng vô ích. Lũ chim cứ tỉnh bơ, làm như chúng điếc. Họ lấy vồ bằng gỗ đập thật mạnh vào các thân cây nơi chim đậu. Cũng hoàn toàn vô ích. Họ đành chịu thua, cho rằng đây là một thiên tai, một “act of God”, bởi vì, hằng năm, vào thời gian này, để tránh khí hậu lạnh giá, chim trời đã kéo hết xuống miền Bắc Phi Châu rồi. Theo sự giải thích của tôi, việc “Thiên Chúa làm” này là một sự lặp lại Sứ Điệp Thiên Chúa đã ban qua lời Đức Maria tại La-Sa-lét (nước Pháp) ngày 19-9-1846. Sứ Điêp này đã được ban hành với Imprimatur của Giám Mục Carmelus Archus Cosma, Giáo Phận Lycii, ngày 15-11-1879. Trong Sứ Điệp, Đức Mẹ đã gọi hàng ngũ Linh Mục Công Giáo là một “cái hố phân”. Để lặp lại Sứ Điệp đó, Thiên Chúa đã chọn Vatican, cơ quan trung ương lãnh đạo hàng ngũ Linh Mục thế giới, để nói, bằng việc làm, với cơ quan này rằng: “Bay đã trở thành một cái hố phân, bay đã bị Thiên Chúa từ bỏ vì bay đã trở thành một hang rắn độc”. E. Da Vinci Code và Thánh Giá cù quăm Ta nên để ý đến cây gậy của Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II khi trước và Bê-nê-dic-tô XVI ngày nay cầm tay và chống trong các nghi lễ đại trào, trên đầu gậy là cây Thánh Gíá bị bẻ cụp xuống. Sự bẻ cù quăm này nói lên tình trạng Ki-tô-giáo bị hai Giáo Hoàng này bóp méo, giáo lý của Chúa Giê-su đã bi bẻ cong để thay thế bằng giáo lý của thằng Quỷ Sa-tăng. Nếu Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI còn một chút đức tin Công-giáo thì khi vừa lên ngôi ngày 7-5-2005, ông đã phải ra lệnh huỷ bỏ ngay lập tức toàn thể hệ thông các giáo điều của Quỷ Sa-tăng do Gio-an Phao-lô II rao giảng trong suốt gần 3 chục năm trời. Nhưng than ôi, G.Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI đã chẳng làm như thế. Trái lại, chừng một tuần sau khi lên ngôi, vào ngày 13-5-2005, ông đã ra lệnh phát động thủ tục phong á-thánh cho Gio-an Phao-lô II không phải chờ đợi 5 năm theo Giáo Luật viện lý do rằng ông này “quá thánh, không chờ được”. Than ôi! một kẻ đã từng công khai bỏ đạo Công-giáo đồng thời tuyên xưng đức tin Hồi-giáo của mình, công khai rao giảng giáo những điều của Sa-tăng như giáo điều “Không có Lửa Hoả Ngục”, một kẻ đã từng phản bội Chúa Giê-su khi truất phế Chúa khỏi Ngai Vinh Hiển bằng giáo điều 841 Sách Giáo Lý, một kẻ đã tỏ ra cực kỳ hỗn láo khi kết tội Chúa để gỡ tội cho người Do-thái với giáo điều 589 cũng Sách Giáo Lý, v.v., một kẻ gian ác như thế mà nay được Giáo Hoàng Bê-nê-dic-tô XVI tuyên xưng là “quá thánh” thì thật là trong kho ngôn ngữ của loài người chẳng còn ngôn từ nào để nói về cái gọi là “Toà Thánh Vatican” nữa. Phải sửa lại thành “Tòa Quỷ Sa-tăng”. Nhưng Thánh Giá cù quăm có ăn nhàm gì với cuốn tiêu thuyết của Dan Brown và phim Da Vinci Code? Thưa có ăn nhằm như tôi sẽ thưa sau đây. Chúng ta biết Dan Brown viết cuốn tiểu thuyết giả tưởng “Da Vinci Code” căn cứ vào một bức tranh do một hoạ sĩ tên là Leonardo da Vinci (chết năm 1519) vẽ tại Milan (nước Ý) vào năm 1498. Bức họa mang tên là “The Last Supper” (“Bữa Ăn Tối Sau cùng”, thường gọi là “Bữa Tiệc Ly”). Đề tài “Bữa Tiệc Ly” của Chúa Giê-su đã từng được biết bao hoạ sĩ vẽ. Thí dụ bức vẽ nổi tiếng của Jacopo Bassano (người Ý, chết năm 1592) vẽ năm 1542. Hoặc bức vẽ của Simon Ushakov (người Nga, chết năm 1686) vẽ năm 1685. Hiện nay hàng triệu tín đồ Ki-tô-giáo có những bức tranh với đề tài “Bữa Tiệc Ly” treo trong nhà. Tất cả đều vẽ Chúa Giê-su ngồi ăn tiệc với 12 môn đệ, tất cà thực khách đều là đàn ông. Không bao giờ có ai vẽ một người đàn bà nào ngồi dự tiệc. Ai cũng biết rằng, trong bữc tiệc sau cùng này của Chúa, nếu có một người phụ nữ thì ngưới đó chính là Đức Maria Mẹ của Chúa. Chỉ có Leonardo da Vinci mới vẽ một thiều nữ trẻ đẹp ngồi cạnh Chúa, nhưng không ngồi ngả đầu về Chúa mà lại ngả đầu về một môn đệ gìà lão râu ria xồm xoàm ngồi phía tay phải của nàng. Căn cứ vào thế ngồi đó, Dan Brown tưởng tượng ra hình chữ “M” và gọi đó là “Code” (“Mật mã”) ám chỉ tên của Maria Ma-đa-le-na. Rồi Dan Brown thêu dêt thành câu chuyện cho rằng đó là Vợ của Chúa Giê-su. Nếu là Vợ của Chúa, tại sao Ma-da-le-na không ngồi ngả đầu về Chúa mà lại ngả về phía ông gíà bên cạnh? Ta nên nhớ một điều, và đây mới là điều quan trọng, đó là mục đích của Chúa trong bữa tiệc sau cùng trước cuộc tử nạn. Mục đích đó là thiết lập Bí Tích Thánh Thể và Chức Linh Mục. Có Linh Mục thì mới có Bí Tích Thành Thể. Và chỉ có Linh Mục nam giới, không có Linh Mục nữ giới. Phép lạ Thánh Thể Lanciano còn sờ sờ trước mắt nhân loại để nhắc nhở cho Triều Đình Vatican và toàn thể loài người nhớ rằng: nếu chỉ là một người đàn ông bình thường có vợ có con như trong câu chuyện tưởng tượng của Dan Brwon, Giê-su không thể nào có quyền phép đặt ra được một câu thần chú để rồi 8 kế kỷ sau một người khác đọc lên thì làm cho miêng bánh mì trở thành miếng thịt và ly rượu nho trở thành chén máu người. Sau 12 thế kỷ, hiện nay miếng thịt trái tim người và chén máu người vẫn còn tươi tốt và được trưng bày tại nhà thờ ở Lanciano (nưóc Ý). Vào năm 1981, giáo quyền địa phương đã chính thức nhờ Viện Đại Học Sienna (Ý) phân chất trong Phòng Thí Nghiệm của Viện Đại Học. Kết quả cho thấy miếng thịt trái tim và chén máu của cơ thể loài người vẫn không hề hư thối sau 12 thế kỷ trưng bày tại Lanciano (xin xem www.therealpresence.org/eucharist/mir/lanciano). Tóm lại, Leonardo da Vinci là một thành viên của Băng Đảng Sa-tăng đã vẽ ra bức tranh nhằm hạ bệ Chúa Giê-su. Dan Brown căn cứ vào bức tranh phạm thánh đó để viết ra cuốn tiểu thuyết Da Vinci Code cũng nhằm hạ bệ Chúa Giê-su, vì Dan Brown cũng là thành viên của Băng Đảng Sa-tăng. Rồi bọn tài tử và những kẻ làm phim ảnh cũng thuộc Băng Đảng Sa-tăng tung ra thị trường cuốn phim phạm thánh để lượm tiền bất chấp điều đó có xúc phạm tới Chúa mà hàng tỷ người trong nhân loại tôn thờ hay không. Đó là một dấu chỉ của thời đại: thời của quỷ dữ tung hoàng trên mặt đất (Khải Huyền 20: 7). Trở lại chuyện Thánh Giá cù quăm. Đâu là liên hệ với Da Vinci Code? Xin thưa rằng, giữa Thánh Giá cù quăm của hai G.Hoàng Gio-an Phao-lô II và Bê-nê-dic-tô XVI với cuốn sách truyện Da Vinci Code của Dan Brown có một mẫu số chung: đó là sự Bóp Méo Ki-tô-giáo. Sự bóp méo này cực kỳ nghiêm trọng. So với Dan Brown, sự bóp méo Đạo Chúa của hai Giáo Hoàng nặng nề và độc hại hơn gấp ngàn lần, vì chức vị và ảnh hưởng của ngôi vị Giáo Hoàng rộng lớn hơn ảnh hưởng nhất thời của một cuốn tiểu thuyết. Tuy nhiên cả hai đều là thành viên của Băng Đảng Sa-tăng. Cả hai đều tận lực phá huỷ Đạo Chúa Ki-tô. Một hôm tôi hỏi một Linh Mục Giáo Sư tại một Đại Chủng Viện rằng: “Cha nghĩ thế nào về tuyên bố của Giáo Hoàng cho rằng “Chẳng làm gì có Lửa Hoả Ngục”. Linh Mục đáp: “Đức Thánh Cha nói đúng. Thiên Chúa là Cha nhân từ không thể nào tạo dựng nên một biển lửa rồi đun nấu đàn con của mình trong đó được”. Tôi bèn giảng cho Linh Mục một bài về Công Lý của Thiên Chúa. Tuy Thiên Chúa là Cha nhân từ, nhưng ta đừng quên rằng Chúa là Đấng công minh chính trực: kẻ có công thì Chúa phải thưởng kẻ có tội thì Chúa phải trừng phạt. Không phạt kẻ có tội thì sao gọi được là công chính. Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng ông Linh Mục chịu nghe bài giảng của tôi. Và tôi nghĩ trong bụng rằng: thế là hết; Giáo Hội có một Giáo Hoàng làm tay sai cho quỷ Sa-tăng, ngang nhiên giảng những giáo điều của Sa-tăng. Rồi một Giáo Hoàng khác thì ca tụng tay sai của quỷ là “quá thánh, cần phải được phong thánh ngay lập tức, santo subito”.Tuy còn đứng nguy nga đồ sộ, nhưng thực sự là Giáo Hội Công Giáo La-mã đã chết rồi. Đã tan rã rồi. Gọi là “chết đứng”. Xin tiếp tay phổ biến sâu rộng Điện Thư Tiếng Loa Cảnh Báo này bằng Anh ngữ và Việt ngữ, góp nhặt bởi Trương Tiến Đạt, cựu Nghị Sĩ Thượng Nghị Viện VNCH, Luật Sư Toà Thượng Thẩm Saigon. Email address: dattientruong@hotmail.com. Website: http://www.thewarning-trumpets.com. Muốn đọc các Điện Thư khác hoặc đọc bản Anh-ngữ, xin mở website vừa kể. - - - - - - - - - - (1). Xin chú ý: Trong bản Kinh Thánh tiếng Việt do LM Nguyễn Thế Thuấn dịch từ bản tiếng Pháp “La Bible de Jérusalem”, câu này là câu 1 Chương 3 Sách Giô-en, trong khi trong tất cả các bản văn khác kể cả bản Vulgata tiếng La-tinh hoặc bản tiếng Việt của Thánh Kinh Hội Nữu Ước(Tin Lành), câu này là câu 28 Chương 2. (2).Về lời tuyên bố của Hồng Y Siri, xin xem Nguyệt San “30 Days” Số ra tháng 6 năm 1989, các trang 71-74 và Số ra tháng 9 năm 1993 trang 50. (3).Tác phẩm nhan đề “ES 1025” nguyên tác bằng tiếng Pháp của Marie Carre, nhà xuất bản Segieb, Pháp,tháng 5 năm 1972 . Được Linh Mục Ira J. Bourassa dịch sang Anh ngữ nhan đề là “AA 1025”, nhà xuất bản Saint-Raphael tại Quebec, Canada tháng 4 năm 1988, phát hành tại Hoa Kỳ do nhà xuất bản TAN BOOKS, P.O.Box 424, Rockford, IL 61105. (4). “The Rhine Flows into the Tiber” của Linh Mục Dòng Ngôi Lời Ealph M. Wiltgen nhà xuất bản Tan Books, địa chi nói trên * “Iota Unum”, nguyên tác bằng tiếng Ý, mang cùng nhan đề tiếng La-tinh. Bản dịch Anh ngữ mang cùng nhan đề La-tinh “Iota Unum”, dịch giả là Linh Mục John P. Parsons, nhà xuất bản Sarto House, Kansas City, MO 64127. | |